
Minh bạch thị trường vàng, tài sản mã hóa, an toàn giao dịch số
Lãi suất, tín dụng được quan tâm
Hoạt động ngân hàng quý III/2025 tiếp tục khẳng định vai trò điểm tựa khi doanh nghiệp và người dân đối diện nhiều thách thức trong sản xuất, kinh doanh. Phát biểu tại buổi Họp báo Công bố kết quả hoạt động ngành ngân hàng quý III/2025, ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), thẳng thắn nhìn nhận, nền kinh tế Việt Nam đang gặp không ít khó khăn cả bên ngoài lẫn trong nước, trong đó những cú sốc từ thị trường thế giới đã tạo áp lực lớn đối với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Ông Quang cho biết, để hỗ trợ nền kinh tế, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ liên tục chỉ đạo ngành ngân hàng thực hiện các biện pháp chủ động, trong đó nổi bật là nỗ lực giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Từ năm 2022 đến nay, ngành Ngân hàng đã kiên trì cắt giảm lãi suất, không chỉ nhờ sự điều hành quyết liệt, mà còn nhờ áp dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, tiết giảm chi phí hoạt động và nhân sự. Những bước đi này tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.

Ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) phát biểu. Ảnh: Thu Trang
Theo ông Quang, Ngân hàng Nhà nước thường xuyên cung ứng thanh khoản với chi phí thấp cho hệ thống tổ chức tín dụng, qua đó tạo nền tảng để giảm lãi suất cho vay. Đây là nỗ lực thầm lặng nhưng mang tính quyết định trong việc giữ ổn định dòng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, ông khẳng định, việc cung ứng vốn không đồng nghĩa với “in tiền” gây áp lực lạm phát.
“Ngân hàng Nhà nước phải liên tục rà soát, cân nhắc để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, vừa kiểm soát nguy cơ lạm phát. Chúng tôi luôn hết sức thận trọng trong điều tiết dòng tiền”, ông Quang nhấn mạnh.
Về tín dụng, Ngân hàng Nhà nước điều hành theo hướng linh hoạt, ưu tiên cho những tổ chức tín dụng có năng lực quản trị tốt, đảm bảo an toàn hệ thống. Dự kiến, tăng trưởng tín dụng cả năm có thể đạt 19 - 20%, mức cao so với nhiều nước trong khu vực. Song, đi cùng kỳ vọng, rủi ro nợ xấu vẫn hiện hữu và được Ngân hàng Nhà nước đặt trong tầm kiểm soát khi yêu cầu các tổ chức tín dụng chú trọng hiệu quả và chất lượng cho vay.
Ông Quang dự báo, nếu các tổ chức tín dụng tiếp tục duy trì khả năng huy động vốn tốt, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh bền vững, thì tín dụng năm 2025 có thể đạt mức tăng cao nhất trong 10 - 15 năm trở lại đây, tạo đà quan trọng cho mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số trong các năm tiếp theo.
Song song với đó, mặt bằng lãi suất cho vay được kỳ vọng tiếp tục giảm trong thời gian tới, nhờ chuyển đổi số và tinh giản chi phí vận hành. Chính sách này không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn, mà còn góp phần ổn định lạm phát, khi bình quân 8 tháng năm 2025 được kiểm soát ở 3,25% và lạm phát cơ bản ở mức 3,19%.

Toàn cảnh Họp báo Công bố kết quả hoạt động ngành ngân hàng quý III/2025. Ảnh: Thu Trang
Vàng, tài sản mã hóa - những vấn đề mới nổi
Bên cạnh tín dụng và lãi suất, thị trường vàng cũng là một nội dung trọng tâm. Ông Đào Xuân Tuấn, Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước), thông tin rằng trong bối cảnh giá vàng biến động và nguồn cung khan hiếm, Chính phủ đã ban hành Nghị định 232/2025 sửa đổi Nghị định 24/2012 để tạo hành lang pháp lý mới cho quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Hiện Ngân hàng Nhà nước đang gấp rút hoàn thiện Thông tư hướng dẫn, dự kiến có hiệu lực từ ngày 10/10/2025.

Ông Đào Xuân Tuấn, Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước), thông tin tại họp báo. Ảnh: Ngọc Mai
Theo ông Tuấn, một trong những điểm được thị trường chờ đợi là cơ chế cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu, hạn mức nhập khẩu và tham gia sản xuất vàng miếng. “Nghị định 232 quy định rõ nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ cơ chế thị trường và phù hợp với định hướng điều hành chính sách tiền tệ”, ông Tuấn nhấn mạnh, đồng thời khẳng định khi các quy định mới đi vào thực thi, nguồn cung vàng trên thị trường sẽ ổn định hơn, đáp ứng nhu cầu thực tế.
Không chỉ với vàng, công tác đảm bảo an toàn hệ thống thanh toán cũng được chú trọng. Theo Vụ Thanh toán, sau khi triển khai làm sạch dữ liệu khách hàng và áp dụng đối chiếu sinh trắc học, so với cùng kỳ năm 2024, số vụ lừa đảo giảm 59%, số tài khoản nhận tiền lừa đảo giảm 52%. Hệ thống ngân hàng đã rà soát khoảng 600.000 tài khoản nghi ngờ, giúp cảnh báo gần 300.000 khách hàng, ngăn chặn giao dịch trị giá khoảng 1.500 tỷ đồng.
Đến tháng 9/2025, đã có 57 tổ chức tín dụng và 39 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tích hợp tính năng đối chiếu sinh trắc học với dữ liệu Căn cước công dân gắn chip trên ứng dụng Mobile Banking. Hơn 128,9 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân được đối chiếu, đạt 100% số lượng tài khoản thanh toán phát sinh giao dịch trên kênh số. Với khách hàng tổ chức, con số này là hơn 1,3 triệu hồ sơ. Đây được xem là bước tiến lớn trong đảm bảo an toàn và củng cố niềm tin vào hệ thống thanh toán số.
Ngoài ra, thị trường tài sản số cũng được đề cập với nhiều yêu cầu mới. Bà Nguyễn Thị Minh Thơ, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống rửa tiền (Ngân hàng Nhà nước), cho biết, Nghị quyết 05 đã xác lập trách nhiệm của các tổ chức cung ứng dịch vụ trên thị trường tài sản mã hóa trong việc phòng chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố và phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
“Các nhà cung cấp dịch vụ trên thị trường tài sản mã hóa nay phải thực hiện nghĩa vụ tương tự như các tổ chức tài chính”, bà Thơ chia sẻ. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ thu thập, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Công an và các tổ chức quốc tế. Đây là bước đi quan trọng nhằm đảm bảo thị trường tài sản số vận hành minh bạch, an toàn và phù hợp chuẩn mực quốc tế.
Từ những thông tin công bố tại buổi họp báo, có thể thấy hệ thống ngân hàng đang nỗ lực toàn diện như: giảm lãi suất, điều hành tín dụng thận trọng, tăng cung vàng, bảo vệ an toàn giao dịch và mở rộng khung pháp lý cho tài sản số. Tất cả đều hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tạo dư địa phát triển bền vững cho doanh nghiệp cũng như người dân.
Theo Ngân hàng Nhà nước, Vốn tín dụng tiếp tục hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, trong đó khoảng 78% dư nợ nền kinh tế phục vụ lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể, cơ cấu tín dụng 9 tháng năm 2025: tỷ trọng tín dụng đối với 3 ngành kinh tế lần lượt là nông, lâm, thủy sản chiếm 6,23%; công nghiệp, xây dựng chiếm 23,97%; thương mại, dịch vụ chiếm 69,8% (cùng kỳ năm 2024 lần lượt ở mức 6,84% - 25,65% - 67,51%).