Nhìn lại quá trình xây dựng, gìn giữ và phát triển đất nước hơn 4.000 năm qua, không thể không nhắc đến những đóng góp to lớn của tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam với nhiều loại hình đa dạng, hoạt động phong phú và ngày càng phát triển, thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế. |
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm rõ ràng về văn hóa dân tộc, được thể hiện thông qua sự tôn trọng quyền con người, trong đó có tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Người tìm những giá trị nhân văn ở các tôn giáo để đoàn kết, cổ vũ, khích lệ đồng bào theo tôn giáo phát huy các giá trị tích cực vào xây dựng đạo đức xã hội. Người đánh giá cao lòng bác ái, đức hy sinh của những vị sáng lập ra các tôn giáo khi hun đúc các giá trị chân, thiện, mỹ của xã hội để trở thành triết lý của tôn giáo. Và dù bất kỳ tôn giáo nào cũng có đặc điểm chung là mưu cầu hạnh phúc chính đáng cho con người và cộng đồng xã hội. Từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Điều đó được thể hiện quan hàng loạt Nghị quyết, văn kiện và các văn bản của Đảng, điển hình như Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX “Về công tác tôn giáo”. Hay trog văn kiện của Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Phát huy các giá trị văn hóa, nhân tố tích cực trong văn hóa, tín ngưỡng”; Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị văn hóa tôn giáo khi yêu cầu “Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS, TS Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho biết, từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng đều khẳng định vai trò của tôn giáo, coi giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự thừa nhận, tôn trọng và chủ trương phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôn giáo phát huy triết lý, giáo lý tốt đẹp trong đời sống xã hội và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. |
Có thể khẳng định, Việt Nam là đất nước có nhiều dân tộc và tôn giáo đa dạng. Tính đến tháng 12/2021, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 41 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với số tín đồ chiếm 27% dân số cả nước, trên 58 nghìn chức sắc, khoảng 148 nghìn chức việc và trên 29 nghìn cơ sở thờ tự trên cả nước. Trải qua chiều dài lịch sử dân tộc hơn 4.000 năm, tôn giáo luôn gắn kết chặt chẽ, đồng hành cùng dân tộc trong quá trình xây dựng, gìn giữ và phát triển đất nước. Nó không chỉ biểu hiện ở các giá trị đạo đức, văn hóa hướng tới “chân – thiện – mỹ” mà còn góp phần phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần truyền thống hộ quốc, an dân. Đơn cử như Phật giáo có mặt tại Việt Nam hơn 2.000 năm đã góp phần nâng cao mối quan hệ đoàn kết dân tộc, làm sâu sắc và phong phú thêm các giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam. Phật giáo giúp con người nâng cao trách nhiệm đối với cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội, thúc đẩy con người điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân. Tương tự, giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong giáo lý của Công giáo, Tin lành được thể hiện ở 10 điều răn, trong đó có nhiều điều răn về đạo đức làm người đã góp phần bồi dưỡng đạo đức, văn hóa cá nhân cũng như xã hội. Các tôn giáo khác ở Việt Nam đều có một điểm chung là hướng thiện, hướng con người đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái; khuyên răn con người tri ân công đức, uống nước nhớ nguồn, lấy đạo hiếu làm trọng, luôn tu dưỡng đạo đức, hoàn thiện bản thân, tránh làm những điều xấu, phát huy những điều tốt, giúp đỡ người khác, sống đoàn kết, lan toả yêu thương… cùng nhau xây dựng cộng đồng hoà bình, phát triển kinh tế và vì một Việt Nam hùng cường. |
Thực tế, các tôn giáo dù khác nhau nhưng đều có đóng góp chung vào công cuộc xây dựng xã hội, đất nước bằng các hành động cụ thể như tích cực tham gia, hưởng ứng, thực hiện tốt các phong trào chung như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư, “Xây dựng chùa cảnh tinh tấn, gương mẫu”, “Xây dựng xứ, họ tiên tiến, gia đình Công giáo gương mẫu”, hay các phong trào phòng, chống tội phạm, ma túy, tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới trong việc hiếu, hỉ và lễ hội, xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước của thôn xóm, khu dân cư... Thực tế cho thấy, dù bất cứ phong trào nào, các tôn giáo cũng đều có đóng góp trong phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh ở nhiều địa phương, như Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Cà Mau,... đồng bào tôn giáo đã tự nguyện đóng góp hàng trăm tỷ đồng và hàng trăm nghìn ngày công, hiến đất, hiến nguyên vật liệu làm đường giao thông nông thôn, xây dựng trường học, khu vui chơi, sinh hoạt văn hóa, thể thao,... góp phần xây dựng quê hương ngày càng khang trang, sạch đẹp. Nhiều lớp học tình thương, trường, lớp mầm non do các chức sắc, nhà tu hành và các tổ chức tôn giáo thành lập đã và đang có những đóng góp thiết thực cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo và ngày càng được tín nhiệm trong xã hội. |
Nhiều phòng khám, chữa bệnh của các tôn giáo đã và đang hoạt động hiệu quả, góp phần cùng Nhà nước nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Các hoạt động từ thiện xã hội được đông đảo chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo tích cực thực hiện dưới nhiều hình thức, như hỗ trợ vốn sản xuất, mở trường, lớp tình thương, xây dựng trung tâm bảo trợ xã hội, cấp học bổng, khám chữa bệnh, hỗ trợ thiên tai, hiến máu, giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn; cứu trợ an sinh xã hội trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, qua đó, thể hiện tình yêu thương, chia sẻ, đùm bọc của con người Việt Nam “lá lành đùm lá rách”. Bên cạnh duy trì những giá trị tốt đẹp, sự phát triển tôn giáo tại Việt Nam đã để lại những công trình kiến trúc cảnh quan, điêu khắc và hệ thống các lễ hội đặc sắc như chùa Hương, Bái Đính, núi Bà Đen, Nhà thờ đá Phát Diệm, Nhà thờ Lớn tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội… là cơ sở nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện rõ nhất là dịch vụ du lịch. |
Hàng năm, hàng nghìn lễ hội tôn giáo, văn hoá, du lịch được tổ chức quy mô, trọng thể, trang nghiêm, điển như lễ Phật đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin Lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo… Các Lễ hội của mọi tôn giáo đều trở thành hội lễ chung vui của toàn dân tộc như Lễ hội Đền Hùng, lễ Noel, lễ hội La Vang, chùa Hương… |
PGS.TS Chu Văn Tuấn cho rằng, các tín ngưỡng, tôn giáo góp phần tạo ra các di tích văn hóa, các di vật là những bảo vật quốc gia, những quần thể di tích, danh lam thắng cảnh chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật… Đây chính là nguồn "tài nguyên" quý giá cho sự phát triển đất nước. Đáng chú ý, nguồn "tài nguyên" này có thể vừa bảo tồn, vừa khai thác một cách bền vững mà không lo "cạn kiệt" như nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nếu như các địa phương biết khai thác các di sản tín ngưỡng, tôn giáo để phát triển du lịch một cách có chiến lược, có mục tiêu rõ ràng và hướng đến phát triển bền vững thì có thể kích thích phát triển kinh tế xã hội của địa phương rất hiệu quả. Không chỉ là các ngành nghề liên quan đến du lịch mới được phát triển mà tất cả các ngành, lĩnh vực khác cũng được kích thích phát triển. Thông qua đó, cơ sở hạ tầng của địa phương cũng được xây dựng và phát triển, những cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đối với địa phương cũng vì thế mà được mở rộng. "Lấy một ví dụ để chúng ta dễ hình dung, nếu như mỗi địa phương thu hút được 1 triệu du khách/năm, và mỗi du khách chỉ chi tiêu 1 triệu/người thì địa phương đó đã thu được 1.000 tỷ đồng/năm. Nếu như số du khách tăng lên, số tiền mà du khách bỏ ra chi tiêu khi đến địa phương tham quan tăng lên thì có thể nói con số sẽ gấp nhiều lần. Ngoài số tiền thu được như trên, các địa phương còn thu được những lợi ích khác cho phát triển kinh tế xã hội", PGS.TS Chu Văn Tuấn cho biết. Trên thực tế, các điểm di tích, lễ hội tôn giáo đã trở thành nguồn lực quan trọng để các tín đồ ở địa phương phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần thông qua việc cung cấp các dịch vụ lễ lạt, ăn nghỉ, sản xuất nông sản, thảo dược; duy trì, phát triển nghề thủ công, bán hàng lưu niệm. Cơ sở hạ tầng theo đó cũng được phát triển và đang mang lại lợi ích to lớn cho các tín đồ nói riêng và người dân địa phương nói chung. |
Nhìn vào những giá trị, hoạt động tôn giáo, có thể thấy đây là minh chứng rõ nét nhất về quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Quan điểm này không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp, trong các văn kiện của Đảng mà còn hiện thực hoá bằng các Nghị quyết, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước trong quá trình hội nhập, các giá trị tôn giáo ngày càng được phát huy, trở thành nguồn lực nền tảng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc – điều mà mỗi người dân đất Việt nên tự hào, từ đó gìn giữ, phát huy, cùng nhau xây dựng đất nước hoà bình, giàu đẹp. |
Thực hiện: Đình Dũng – Trang Anh |