Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Những doanh nghiệp không ngại đầu tư vào các vùng khó khăn đã góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của ngành Công Thương nhằm thực hiện Quyết định 1719.
Lấy ý kiến địa phương về dự thảo Nghị định phân cấp, phân quyền ngành Công ThươngNgành Công Thương góp phần giải bài toán đầu ra cho nông sản vùng caoLongform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình “thắp lửa” vùng cao: Bài 1

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, với địa hình hiểm trở, đời sống đồng bào khó khăn đã và đang trở thành điểm sáng mới trong bức tranh phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững nhờ một phần lớn vào các chính sách ưu tiên đầu tư, sản xuất kinh doanh của Đảng, Nhà nước, các Bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương và sự nỗ lực lớn của các doanh nghiệp tiêu biểu. Những doanh nghiệp không ngại đầu tư vào các vùng khó khăn đã góp phần hiện thực hóa các mục tiêu liên quan đến ngành Công Thương nhằm thực hiện Quyết định 1719 của Thủ tướng Chính phủ.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Theo ông Bùi Nguyễn Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý thị trường trong nước (Bộ Công Thương), doanh nghiệp là nhân tố quan trọng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu trong Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025. Chính họ là lực lượng trực tiếp kết nối vùng sản xuất với thị trường tiêu dùng, đồng hành cùng người dân trong quá trình chuẩn hóa sản phẩm, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định và tiêu thụ sản phẩm ổn định.

Bên cạnh đó, các Hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác và doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương cũng phát huy vai trò “cánh tay nối dài” của chính sách. Nhiều HTX đã chủ động thay đổi phương thức sản xuất, ứng dụng công nghệ, đầu tư hệ thống sơ chế, đóng gói, nâng cấp bao bì… để sản phẩm dễ dàng tiếp cận thị trường cao cấp hơn. Việc tham gia các hội chợ, sàn thương mại điện tử hay chương trình truyền thông do ngành Công Thương tổ chức đã giúp họ tăng cơ hội tiếp thị và mở rộng đối tác kinh doanh.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, việc xây dựng chuỗi giá trị bền vững trở thành yêu cầu cấp thiết. Các doanh nghiệp lớn nhỏ tại vùng cao đã thực sự là “cánh chim đầu đàn”, kết nối chặt chẽ từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông sản đặc trưng vùng miền.

HTX chè Thịnh An (Thái Nguyên) là một ví dụ điển hình. Hình thành từ những đổ vỡ của một nông trường chè quốc doanh trên “đất chè” Thái Nguyên. Trong lời kể nhẹ nhàng mà thấm thía của nghệ nhân văn hoá trà Việt - Vũ Thị Thương Huyền – Giám đốc HTX Chè Thịnh An, vùng chè Thịnh An từng là nông trường quy mô hàng nghìn ha, chuyên canh chè xuất khẩu, nơi tập trung hàng trăm hộ lao động, trong đó có nhiều hộ dân đồng bào Dao, Tày, Nùng… Nhưng sau khi cổ phần hóa, hệ thống vận hành cũ bị phá vỡ. Hơn 1.000ha chè rơi vào hoang hóa, người rời bỏ, cây chết khô. Một trong những vùng nguyên liệu tốt nhất của Thái Nguyên bỗng rơi vào quên lãng.

Giữa hoang tàn ấy, bà Vũ Thị Thương Huyền – Giám đốc HTX Chè Thịnh An, một người từng gắn bó với chè từ khi còn bé, đã quay về và quyết định bắt đầu lại theo cách khác.

“Chúng tôi đi từ cái lớn về cái nhỏ, rồi lại từng bước nhặt nhạnh các phần giá trị còn sót lại, từ giống chè, đất, kỹ thuật cũ… và bắt đầu lại như chưa từng có gì trước đó". Không bắt đầu bằng khái niệm “sản xuất chè”, bà Huyền chọn làm lại theo hướng “xây dựng hệ sinh thái văn hóa trà”. HTX chè Thịnh An từ đó ra đời không chỉ làm ra sản phẩm mà tạo nên một câu chuyện. Từ quy mô sản xuất nhỏ lẻ ban đầu, HTX đã đầu tư đồng bộ máy móc, công nghệ chế biến hiện đại, đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương trong việc tổ chức đào tạo kỹ thuật canh tác, hướng đến sản phẩm chè sạch đạt chuẩn OCOP 4 sao. Sự bền bỉ của HTX không chỉ giúp nâng cao giá trị thương hiệu chè Thái Nguyên mà còn tạo thu nhập ổn định cho hàng trăm hộ nông dân vùng cao.

Sự thành công của HTX không thể tách rời vai trò quan trọng của các doanh nghiệp đồng hành và chính sách hỗ trợ thiết thực từ Bộ Công Thương. Việc đầu tư công nghệ chế biến sâu, cung cấp kỹ thuật canh tác, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và bao tiêu sản phẩm đã giúp HTX chè Thịnh An có được vị thế vững chắc trên thị trường. Bên cạnh đó, các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ trong nước và quốc tế do Bộ Công Thương tổ chức cũng là bàn đạp để HTX quảng bá rộng rãi thương hiệu, tiếp cận người tiêu dùng hiện đại.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Nếu HTX Chè Thịnh An là đại diện sống động cho các HTX nhỏ bé song đầy khát khao ở vùng dân tộc thì Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) - lại được mệnh danh là doanh nghiệp lớn tiên phong đến khu vực khó khăn để đầu tư chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Trong hành trình đồng hành cùng bà con đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Công ty Cổ phần Doveco đã thể hiện vai trò tiên phong với những nỗ lực không ngừng trong đầu tư công nghệ chế biến sâu, góp phần nâng cao giá trị nông sản truyền thống và cải thiện đời sống người dân. Với định hướng phát triển bền vững, Doveco tập trung xây dựng các chuỗi giá trị khép kín, từ thu mua nguyên liệu đến chế biến và phân phối sản phẩm, giúp tăng cường năng lực cạnh tranh của nông sản vùng cao trên thị trường trong nước và quốc tế.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Sở hữu hơn 5.500 ha đất canh tác và 13.000 ha đất liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, Doveco không chỉ là doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu rau quả theo chuỗi giá trị khép kín quy mô lớn nhất cả nước, mà còn đang là "bệ đỡ" đưa nông sản Việt vươn xa khi tạo đầu ra ổn định cho nông dân nhiều địa phương trong cả nước. Nhiều sản phẩm của Doveco đã chiếm lĩnh thị trường: châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...

Hiện Doveco sở hữu ba trung tâm chế biến rau quả hiện đại bậc nhất, gồm: Nhà máy Doveco Ninh Bình công suất 32.000 tấn sản phẩm/năm; Nhà máy Doveco Gia Lai công suất 52.000 tấn sản phẩm/năm; Nhà máy Doveco Sơn La công suất 52.000 tấn sản phẩm/năm. Doveco sở hữu những công nghệ tiên tiến nhất hiện nay như: công nghệ cấp đông IQF xuất xứ từ Nhật Bản; công nghệ cô đặc và xay nhuyễn nhập khẩu châu Âu; công nghệ phát hiện dị vật; công nghệ đóng gói sản phẩm đông lạnh; công nghệ cắt gọt dứa tự động…

Sản phẩm xuất khẩu chính của Doveco là chanh leo, được trồng chủ yếu ở Tây Nguyên. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, trồng ở độ cao 700-800m so mực nước biển nên cây chanh leo phát triển rất tốt, cho năng suất cao. Ngoài ra, Doveco còn có sản phẩm truyền thống là dứa tươi nguyên chất và các loại nước ép trái cây khác như: chuối tươi, đào tươi, lạc tiên... có xuất xứ từ khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Bên cạnh đó là các sản phẩm đóng hộp như ngô hạt, ngô ngọt nghiền…; các sản phẩm đông lạnh gồm dứa, xoài, vải cùi, vải nguyên quả… và các loại trái cây tươi khác. Thời gian vừa qua, Doveco cũng thu mua và xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc. Đây là loại trái cây có sức cạnh tranh lớn, với kim ngạch xuất khẩu và khả năng chiếm lĩnh thị trường rất cao.

Một trong những điểm nhấn của Doveco là hợp tác chặt chẽ với các HTX và hộ dân tại các tỉnh vùng cao như Thái Nguyên, Lào Cai, Hà Giang, nơi có điều kiện tự nhiên phù hợp cho việc phát triển các loại cây trồng đặc sản. Công ty không chỉ bao tiêu sản phẩm mà còn hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng chất lượng, hướng dẫn quy trình sản xuất sạch, đảm bảo truy xuất nguồn gốc rõ ràng, từ đó nâng cao uy tín và thương hiệu sản phẩm trên thị trường.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Ông Đinh Cao Khuê - Chủ tịch Hội đồng quản trị Doveco nhấn mạnh, Doveco có cơ chế xây dựng lòng tin với nông dân thông qua việc bảo đảm lợi ích, thanh toán tiền kịp thời với giá thành bảo đảm, giúp nông dân luôn có lợi. Khi nông dân có lợi nhuận thì mọi việc rất thuận lợi và càng liên kết sâu sẽ càng ổn định.

Nhờ sự đồng hành bền bỉ của Doveco, bà con đồng bào dân tộc đã từng bước thoát khỏi cảnh manh mún, nhỏ lẻ, khó tổ chức sản xuất hiệu quả. Việc xây dựng chuỗi liên kết giúp ổn định đầu ra cho sản phẩm, giảm thiểu rủi ro về giá cả và thị trường. Đồng thời, Doveco còn phối hợp với các tổ chức, chính quyền địa phương triển khai các chương trình đào tạo nâng cao kỹ năng sản xuất, giúp người dân tiếp cận với các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường xuất khẩu.

Không dừng lại ở đó, Doveco đã chủ động mở rộng thị trường phân phối qua các hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi trong nước như Saigon Coop, Vincommerce, cũng như đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế, góp phần đưa nông sản vùng cao vươn xa ra thị trường thế giới. Đây chính là minh chứng rõ ràng cho sự chuyển mình của các sản phẩm nông nghiệp truyền thống khi được đầu tư bài bản, có tầm nhìn chiến lược và sự hỗ trợ thiết thực từ doanh nghiệp.

Một doanh nghiệp khác là Công ty cổ phần Nafoods Group với vùng nguyên liệu tại Lào Cai và nhiều tỉnh miền núi phía Bắc đã xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế, cung cấp sản phẩm trái cây tươi và chế biến xuất khẩu sang châu Âu, Nhật Bản với thương hiệu uy tín, góp phần nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản vùng cao.

Là công ty chuyên sản xuất kinh doanh thực phẩm và đồ uống, Nafoods luôn luôn coi trọng những nguyên tắc phát triển bền vững trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh gắn liền với việc thực hiện trách nhiệm xã hội, môi trường. Chính niềm tin này đã thúc đẩy cam kết của chúng tôi trong việc sử dụng nguồn lực và chuyên môn của mình để đóng góp vào một tương lai tốt đẹp hơn cho con người, xã hội và môi trường.

Trong những năm qua, Nafoods thúc đẩy các hoạt động phát triển vùng trồng, đồng hành cùng bà con nông dân, thông qua việc ký kết các hợp đồng hợp tác phát triển vùng trồng với hơn 2.500 nông hộ. Việc này vừa giúp ổn định được nguồn cung nguyên liệu đầu vào về các nhà máy sản xuất trong hệ thống, đảm bảo số lượng và chất lượng đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu, đảm bảo truy suất được nguồn gốc; vừa giúp người nông dân nâng cao hiệu quả đầu tư, ổn định thu nhập.

Bên cạnh đó, Nafoods còn đồng hành cùng bà con nông dân tại nhiều địa phương như Mộc Châu (Sơn La), Quế Phong (Nghệ An) và nhiều tỉnh khu vực Tây Nguyên bằng các việc làm cụ thể như tạo công ăn việc làm, hỗ trợ tư vấn, cải thiện thu nhập từ việc liên kết vùng nguyên liệu chanh leo.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Từ phía các kênh phân phối, đặc biệt là hệ thống phân phối thuần Việt như Co.opmart của Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, cách tiếp cận với sản phẩm miền núi đã không còn đơn thuần là mua đi bán lại. Họ chủ động trở thành người bạn đồng hành của bà con và hợp tác xã. Họ ký hợp đồng bao tiêu dài hạn, hỗ trợ kiểm nghiệm, tư vấn mẫu mã và thậm chí tổ chức các buổi đào tạo trực tiếp tại vùng nguyên liệu.

Những chương trình như “Tuần hàng OCOP”, “Hàng Việt về nông thôn”, hay lễ hội hàng vùng cao… được tổ chức đều đặn để sản phẩm được hiện diện và được yêu mến. Không chỉ là phân phối, các doanh nghiệp bán lẻ đã cùng với các hợp tác xã vùng cao nỗ lực để xây dựng thương hiệu, cùng nuôi dưỡng bản sắc sản phẩm địa phương trong môi trường tiêu dùng hiện đại.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Cùng với Co.opmart, nhiều chuỗi phân phối khác cũng đang thể hiện vai trò tích cực trong việc kết nối nông sản miền núi với người tiêu dùng.

Bách Hóa Xanh là một ví dụ. Với hơn 2.000 điểm bán, hệ thống phân phối này đang triển khai mô hình “cùng nông dân làm chuỗi” thông qua việctrực tiếp xuống vùng nguyên liệu ký hợp đồng thu mua sớm, cam kết tiêu thụ trước cả khi bà con xuống vụ. Một số mặt hàng đặc trưng như rau cải Mèo, bí ngô rừng, thịt hun khói, nấm hương bản địa… đã được Bách Hóa Xanh đưa về phân phối thử nghiệm tại các tỉnh Nam Bộ, nhận được phản hồi tích cực từ người tiêu dùng thành thị.

Nhà phân phối khác là WinMart và chuỗi cửa hàng WinMart+ lại đi theo hướng “định vị cao cấp” cho nông sản vùng cao. Các sản phẩm được đưa vào nhóm “thực phẩm xanh – nguồn gốc sạch”, trưng bày riêng biệt, đi kèm hướng dẫn chế biến, truyền thông rõ về vùng trồng. Nhờ đó, người tiêu dùng không chỉ mua mà còn hiểu, nhớ và ủng hộ sản phẩm.

Song song đó, các chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch như Sói Biển, Bác Tôm, Tâm Đạt trên địa bàn Thủ đô… cũng đóng vai trò như những “phòng trưng bày nông sản bản địa”, nơi người tiêu dùng thành thị có thể tìm thấy chè Shan Tuyết, mật ong bạc hà, mận hậu, rau rừng với mức giá hợp lý, độ tin cậy cao.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Bên cạnh hệ thống phân phối truyền thống, thương mại điện tử cũng đang mở ra một cánh cửa mới cho nông sản miền núi. Những gian hàng vùng cao trên Shopee, Sendo, nongsan.buudien.vn… ngày càng được quan tâm. Các chương trình như “Đưa đặc sản lên sàn”, “Phiên chợ OCOP online”, “Livestream xuyên Việt kết nối nông sản” đã giúp hàng chục HTX vùng sâu bán được sản phẩm mà trước đây không ai biết đến.

Thay vì mang hàng xuống chợ huyện, giờ đây bà con livestream ngay từ vườn, kể câu chuyện cây chè, giọt mật, củ nghệ. Không chỉ bán, họ đang học cách làm thương hiệu trong không gian số, điều mà trước đây tưởng như xa vời.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Chương trình 1719 của Bộ Công Thương, với mục tiêu hỗ trợ phát triển thị trường trong nước, đặc biệt tập trung vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo hành lang chính sách quan trọng, giúp doanh nghiệp và địa phương phối hợp hiệu quả.

Bộ Công Thương đã thiết lập các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển vùng nguyên liệu quy mô lớn. Đồng thời cấp kinh phí cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế, góp phần xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Hệ thống kết nối cung cầu được xây dựng bài bản, qua đó doanh nghiệp vùng cao được hỗ trợ về thông tin thị trường, tìm kiếm đối tác và mở rộng kênh tiêu thụ. Những chương trình đào tạo kỹ thuật, chuyển giao công nghệ do Bộ phối hợp thực hiện đã giúp nâng cao năng lực sản xuất và quản trị doanh nghiệp tại vùng khó khăn.

Chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng logistics cũng được ưu tiên, nhằm giải quyết “nút thắt” chi phí vận chuyển, giúp doanh nghiệp vùng cao giảm áp lực chi phí, tăng sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, các doanh nghiệp vùng cao vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức cản trở sự phát triển bền vững. Theo TS Lê Quốc Phương - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương, trước hết, hạ tầng giao thông và logistics yếu kém làm tăng chi phí vận chuyển, thời gian giao hàng kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt đối với các mặt hàng nông sản tươi, dễ hỏng như cam sành Hà Giang, dược liệu Lào Cai… Việc đầu tư nâng cấp hạ tầng vùng cao chưa đồng bộ và thiếu nguồn lực cũng là nguyên nhân khiến doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế.

Longform | 5 năm triển khai Quyết định 1719: Ngành Công Thương và hành trình 'thắp lửa' vùng cao: Bài 2

Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún của các hộ dân vùng cao gây khó khăn lớn trong tổ chức vùng nguyên liệu quy mô lớn, chuẩn hóa kỹ thuật canh tác và thu hoạch. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và khả năng truy xuất nguồn gốc, khiến doanh nghiệp khó xây dựng thương hiệu có sức cạnh tranh bền vững.

Ngoài ra, thiếu thông tin thị trường, khó khăn trong công tác truy xuất nguồn gốc và bảo hộ thương hiệu là thách thức chung. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận hiệu quả các kênh tiêu thụ hiện đại, hoặc thiếu năng lực trong xây dựng thương hiệu bài bản, dẫn đến sản phẩm khó vươn xa thị trường quốc tế.

Để phát huy tối đa vai trò “cánh chim đầu đàn” của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế vùng cao, cần có các chính sách đồng bộ, thiết thực và có tầm nhìn chiến lược. Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ “hiến kế”, thứ nhất, chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ bảo hiểm rủi ro cần được mở rộng nhằm giúp doanh nghiệp an tâm đầu tư vào vùng nguyên liệu, công nghệ chế biến và phát triển thị trường. Việc giảm áp lực tài chính sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Thứ hai, Bộ Công Thương cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp trong xúc tiến thị trường quốc tế, đặc biệt là các thị trường khó tính. Đồng thời, việc hỗ trợ xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc và bảo hộ thương hiệu cần được quan tâm, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm nông sản vùng cao.

Thứ ba, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp với chính quyền địa phương, các hợp tác xã và người nông dân, đồng thời đầu tư nâng cấp hạ tầng logistics và giao thông vùng cao là yếu tố quyết định để giải quyết “điểm nghẽn” trong chuỗi cung ứng.

Cuối cùng, thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý sản xuất, tiêu thụ và logistics, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp tăng hiệu quả, giảm chi phí và mở rộng kênh bán hàng đa dạng, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.

Phương Lan

Đồ họa: Ngọc Lan

Phương Lan
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận