Chuyển đổi tư duy kinh tế nông nghiệp
Theo Tỉnh ủy Lạng Sơn, tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đã đạt nhiều kết quả tích cực. Khắc phục những khó khăn do tác động của thiên tai, dịch bệnh, sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh phát triển khá toàn diện.
Tỉnh Lạng Sơn đã tập trung phát triển các vùng cây trồng chủ lực, thế mạnh của địa phương
Tỉnh đã tập trung phát triển các vùng cây trồng, vật nuôi chủ lực, thế mạnh của địa phương, từng bước chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp.
Trong đó, lĩnh vực trồng trọt có những chuyển biến mạnh về cơ cấu cây trồng, mùa vụ, áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất; sản lượng lương thực hàng năm đạt trên 305 nghìn tấn, an ninh lương thực được đảm bảo; các vùng trồng tập trung sản phẩm đặc sản, chủ lực của tỉnh với hơn 6.700 ha được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ và các tiêu chuẩn chất lượng khác.
Đơn cử, vùng rau tập trung với diện tích đạt trên 2.500 ha; vùng lúa đặc sản, chất lượng diện tích trên 2.900 ha, sản lượng đạt 13.400 tấn; vùng khoai lang với diện tích 1.400 ha, sản lượng đạt 10.000 tấn; vùng thạch đen đạt diện tích từ 2.300 - 3.300 ha, sản lượng đạt 12.000 - 17.000 tấn; vùng trồng ớt cay với diện tích trên 1.700 - 2.050 ha, sản lượng đạt 14.000 - 18.000 tấn.
Hay, vùng sản xuất chè lấy búp với diện tích 400 ha, sản lượng đạt 1.600 tấn; vùng trồng cây na mở rộng thêm 1.000 ha, diện tích vùng cây na đạt 4.600 ha, sản lượng đạt 43.000 tấn; vùng hồng không hạt Bảo Lâm, hồng Vành khuyên mở rộng thêm 400 ha, diện tích đạt 2.250 ha, sản lượng đạt 12.000 tấn; vùng cây ăn quả có múi khác (bưởi, cam canh, quýt...) diện tích đạt 1.200 ha, sản lượng đạt 5.500 tấn.
Bên cạnh đó, lĩnh vực chăn nuôi chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang quy mô trang trại, nâng cao giá trị gia tăng. Lĩnh vực thủy sản được quan tâm phát triển, nguồn lợi thủy sản được bảo vệ. Diện tích nuôi thủy sản hàng năm duy trì đạt 1.290 ha, sản lượng khai thác ước đạt 1.955 tấn/năm.
Lĩnh vực lâm nghiệp được chú trọng, nhiều chương trình, chính sách thuộc lĩnh vực lâm nghiệp được ban hành; đã hình thành các vùng sản xuất lâm nghiệp, kinh tế lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân. Diện tích trồng rừng hàng năm đạt 9.468 ha, tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2025 ước đạt 64,5%, tăng 1,5% so với năm 2020.
Lạng Sơn cũng có các chính sách đặc thù khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, cấp mã số vùng trồng đạt hiệu quả cao. Cụ thể, đã đánh giá phân hạng và công nhận 231 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên.
Xây dựng và hình thành 25 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh; có 229 vùng trồng được cấp mã số, với diện tích 1.275,1 ha, trong đó có 51 mã vùng trồng nội tiêu, diện tích 343,7 ha; 178 mã vùng trồng xuất khẩu, diện tích 931,7 ha.
Đi cùng với tái cơ cấu nông nghiệp, phong trào xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp, đạt kết quả tích cực. Hết năm 2024, toàn tỉnh có 106/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 28/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 10/175 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; đạt chuẩn bình quân 15,21 tiêu chí/xã, tăng 2,31 tiêu chí/xã so với năm 2020. Tổng kinh phí huy động xây dựng nông thôn mới đạt 40.030 tỷ đồng.
Diện mạo nông thôn có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn từng bước được nâng cao .Trong nhiệm kỳ 2020-2025 đã có 47/88 xã và 315/644 thôn thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn, đạt mục tiêu Trung ương giao; đã giải quyết việc làm mới cho 85,1 nghìn lao động.
Tỷ lệ hộ nghèo bình quân hằng năm giảm 2,95%, ước hết năm 2025 toàn tỉnh còn 1,36% hộ nghèo. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh năm 2025 đạt 99%, tăng 3,9% so với năm 2020; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn đạt 60%, tăng 1,9%...
Hình thành các vùng chuyên canh, quy mô lớn
Theo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2025-2030, đã đặt ra chỉ tiêu cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn đến năm 2030 gồm: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 12 - 13%; khu vực công nghiệp - xây dựng 32 - 33%; khu vực dịch vụ 50 - 51%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 4 - 5%.
Na Chi Lăng - niềm tự hào của xứ Lạng
Đồng thời, xác định rõ nhiệm vụ tập trung tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng gắn với xây dựng nông thôn mới và quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo đó, tập trung thực hiện quyết liệt, toàn diện và thực chất tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh; hình thành các vùng trồng trọt chuyên canh, quy mô lớn đối với các sản phẩm chủ lực, đặc sản của tỉnh.
Tỉnh cũng xác định ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số là khâu đột phá để nâng cao chất lượng và mở rộng thị trường; tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại, an toàn sinh học, ứng dụng kinh tế tuần hoàn gắn với các cơ sở giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế kinh tế đồi rừng, phát triển lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế bền vững, đặc biệt là khai thác tiềm năng thị trường tín chỉ các-bon; phát triển thủy sản bền vững, bảo vệ và phục hồi nguồn lợi tự nhiên.
Cùng với đó, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tháo gỡ điểm nghẽn, thu hút mạnh mẽ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp.
Tiếp tục đầu tư xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, thực chất, lấy nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân làm trung tâm, hướng tới xây dựng nông thôn văn minh, xanh, sạch, đẹp, đáng sống.
Trong thời gian tới, tỉnh Lạng Sơn sẽ tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm gắn với sản phẩm chủ lực, thế mạnh, đặc sản của địa phương; tập trung phát triển kinh tế rừng; thúc đẩy hợp tác, liên kết, phát triển chuỗi giá trị.