Kinh nghiệm chính sách của Philippines trong phát triển bioethanol
Chính sách tiên phong
Phát biểu tại hội thảo “Phát triển nhiên liệu sinh học trong thời kỳ mới - Những nhiệm vụ trọng tâm để kiến tạo tương lai nhiên liệu bền vững cho Việt Nam” sáng 27/8, bà Rosemarie “Maru” Gumera, cựu đại diện Ban Nhiên liệu sinh học Quốc gia Philippines, Tư vấn viên Hiệp hội Các nhà sản xuất Đường (CONFED), đã chia sẻ về chặng đường hình thành và phát triển ngành bioethanol ở Philippines.
Bà Gumera chia sẻ, Philippines đã bắt đầu phát triển nhiên liệu sinh học sau khi học hỏi thành công của Brazil (quốc gia từ đầu những năm 2000 đã kết hợp sản xuất song song đường và ethanol rất hiệu quả). Từ kinh nghiệm đó, Philippines trở thành nước đầu tiên ở châu Á ban hành Luật Nhiên liệu sinh học, cùng với Luật Năng lượng tái tạo năm 2008, để tạo nền tảng chính sách lâu dài cho ngành.

Bà Rosemarie “Maru” Gumera, cựu đại diện Ban Nhiên liệu sinh học Quốc gia Philippines, Tư vấn viên Hiệp hội Các nhà sản xuất Đường (CONFED)
Động lực phát triển nhiên liệu sinh học tại Philippines xuất phát từ hai ngành chủ lực là mía đường và dừa. Trong đó, khu vực tư nhân ngành mía đường đã vận động Chính phủ đưa bioethanol vào pha xăng, còn ngành dừa tận dụng nguồn dầu dừa dư thừa để sản xuất biodiesel.
Cùng với đó, Chính phủ Philippines cũng đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế nhập khẩu thiết bị và nguyên liệu nông nghiệp trong 7 năm đầu, miễn VAT cho giao dịch bioethanol, đồng thời áp dụng cơ chế bắt buộc tỷ lệ pha trộn nhằm khuyến khích đầu tư.
Ngay sau khi luật được thông qua, Philippines cho phép giai đoạn pha trộn tự nguyện (2007-2009) để doanh nghiệp chuẩn bị hạ tầng. Từ năm 2009, tỷ lệ pha 5% ethanol vào xăng trở thành bắt buộc và được nâng lên 10% từ tháng 2/2012. Chính phủ cũng thử nghiệm mức 20% nhưng chỉ ở dạng tự nguyện do nguồn cung trong nước chưa đủ. Đáng chú ý, để bảo vệ nhà đầu tư, Philippines đưa ra công thức định giá ethanol dựa trên chi phí sản xuất và mức lợi nhuận tối thiểu 15%, giúp cân bằng lợi ích giữa nhà máy ethanol và doanh nghiệp xăng dầu.
Thực tế cho thấy, chính cách đi từng bước và sự hỗ trợ kịp thời về chính sách đã giúp ngành bioethanol Philippines duy trì ổn định trong gần hai thập kỷ.
Thông điệp chính sách cho tương lai
“Năm 2008, Philippines mới có 1 nhà máy chưng cất công suất 8 triệu lít/năm. Đến nay đã có 11 nhà máy hoạt động, với tổng công suất gần 400 triệu lít/năm. Bộ Năng lượng đã cấp phép cho 14 đơn vị. Sau 18 năm, dù tiến độ còn chậm, nhưng chương trình đã duy trì ổn định, nhờ sự đồng hành của Chính phủ nhằm bảo vệ nhà đầu tư và người lao động", bà Gumera cho biết.
Theo bà Gumera, sự ổn định của chương trình trong suốt 18 năm qua là nhờ vai trò đồng hành nhất quán của Chính phủ. Từ việc ban hành chính sách bảo vệ nhà đầu tư, triển khai chương trình an sinh cho người lao động ngành nhiên liệu sinh học, đến việc xây dựng lộ trình phát triển (roadmap) có sự tham gia của toàn bộ chuỗi giá trị từ nông dân, nhà máy đường, công ty xăng dầu, hãng xe cho tới các bộ, ngành hữu quan. Đây là mô hình điển hình của hợp tác công và tư trong một lĩnh vực năng lượng mới nổi.

Các đại biểu tham dự hội thảo
Từ thực tiễn của Philippines, bà Rosemarie Gumera nhấn mạnh, nhiên liệu sinh học không chỉ giúp đa dạng hóa cây trồng, mà còn mở rộng cơ hội kinh tế và bảo đảm phát triển bền vững môi trường, đặc biệt cho cộng đồng nông thôn.
Để ngành bioethanol phát triển, cần liên tục đổi mới công nghệ và có sự tham gia đồng bộ của tất cả các bên: từ Chính phủ, nhà sản xuất nguyên liệu, nhà máy ethanol, doanh nghiệp dầu khí cho tới các hãng xe. Đồng thời, chính sách phải duy trì cơ chế 'mở cửa có chọn lọc' trong thương mại quốc tế, vừa khuyến khích hợp tác xuyên biên giới, vừa bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất trong nước.
Chính kinh nghiệm từ Philippines đã khẳng định rằng, để nhiên liệu sinh học trở thành một ngành công nghiệp bền vững, không chỉ cần hành lang pháp lý minh bạch, mà còn cần sự đồng hành dài hạn giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa mục tiêu môi trường và lợi ích kinh tế. Đây cũng chính là bài học giá trị cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam, trên hành trình mở rộng sử dụng nhiên liệu sinh học trong tương lai.