Dù tăng trưởng về xuất khẩu hàng hoá tăng 10,7% nhưng các nhóm hàng như nông lâm thủy sản ước đạt 32,8 triệu USD, giảm 17% so với cùng kỳ; đạt 82% so với kịch bản đề ra (kịch bản 40 triệu USD). Một số mặt hàng có kim ngạch cao giảm như: hoa quả tươi kim ngạch xuất khẩu ước đạt: 23,1 triệu USD, giảm 14% so với cùng kỳ 2018 (26,8 triệu USD); tinh bột sắn ước đạt 3,3 triệu USD, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2018 (5,1 triệu USD); hàng thủy sản ước đạt 1,5 triệu USD, giảm 56% so với cùng kỳ năm 2018 (3,4 triệu USD),...
Nhóm hàng dệt may ước đạt 54,4 triệu USD, tăng 62,3% so với cùng kỳ năm 2018 (33,5 triệu USD) |
Cũng theo Sở Công Thương Nghệ An, nhóm hàng nông lâm thủy sản giảm do các doanh nghiệp có thời gian nghỉ Tết Nguyên đán và những thay đổi trong chính sách nhập khẩu nông sản của Trung Quốc về nhập khẩu hàng hóa mậu biên đối với các mặt hàng như tinh bột sắn, hoa quả... nên kim ngạch xuất khẩu mậu biên giảm.
Nhóm nguyên liệu và khoáng sản ước đạt 15,9 triệu USD, tăng 17,25% so với cùng kỳ, đạt 93,5% so với kịch bản đề ra (kịch bản 17 triệu USD). Cụ thể các mặt hàng như: Bột đá vôi trắng siêu mịn ước đạt 8,7 triệu USD, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2018 (7 triệu USD); đá vôi trắng ước đạt 6 triệu USD, giảm 0,17% so với cùng kỳ năm 2018 (6,1 triệu USD); đá ốp lát ước đạt 0,98 triệu USD, tăng 145% so với cùng kỳ 2018 (0,4 triệu USD).
Nhóm mặt hàng này mặc dù có sự tăng trưởng nhưng tốc độ chưa được như kỳ vọng do các doanh nghiệp vẫn còn đang trong thời gian chuyển đổi công nghệ chế biến; mặt khác theo phản ảnh của nhiều doanh nghiệp giá tính thuế đối với mặt hàng đá xuất khẩu các loại còn cao.
Ngoài ra, nhóm công nghiệp chế biến ước đạt 125,2 triệu USD, tăng 20,88% so với cùng kỳ, đạt 95,5% so với kịch bản đề ra (kịch bản 131 triệu USD). Cụ thể các mặt hàng như: hàng dệt may ước đạt 54,4 triệu USD, tăng 62,3% so với cùng kỳ năm 2018 (33,5 triệu USD); dăm gỗ 34,7 triệu USD, giảm 13% so với cùng kỳ năm 2018 (39,9 triệu USD); nguyên phụ liệu dệt may da giày ước đạt 7 triệu USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm 2018 (4,2 triệu USD); linh kiện điện thoại ước đạt 5,5 triệu USD, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2018; xơ sợi dệt các loại ước đạt 5 triệu USD, giảm 16,5% so với cùng kỳ năm 2018 (6,8 triệu USD); hạt phụ gia nhựa ước đạt 4,2 triệu USD, tăng 27,2% so với cùng năm 2018 (3,3 triệu USD); ....
Hàng hóa khác ước đạt 1,3 triệu USD, tăng 37,91% so với cùng kỳ, đạt 65% so với kịch bản tăng trưởng năm 2019 đề ra (kịch bản 2 triệu USD).
Bên cạnh đó, kim ngạch nhập khẩu quý I/2019 ước đạt 232 triệu USD, tăng 55,7% so với cùng kỳ (149 triệu USD), tăng 78% so với kịch bản năm 2019. Dự ước kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm đạt 352 triệu USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2018 (297 triệu USD).