Hình thành mạng lưới kết nối di sản, du lịch
Dự án Xây dựng mô hình di sản kết nối gắn với các hành trình du lịch để phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số có di sản tương đồng vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt. Bao gồm: Dự án Xây dựng mô hình kết nối di sản văn hóa phi vật thể “Nghề thủ công truyền thống của người Chăm” trong hành trình du lịch di sản Bàu Trúc - Mỹ Nghiệp (xã Ninh Phước, tỉnh Khánh Hòa), và Dự án Xây dựng mô hình kết nối di sản văn hóa phi vật thể “Nghề làm gốm của người Chăm” trong hành trình du lịch di sản Bình Đức - Bình Tiến (xã Bắc Bình, tỉnh Lâm Đồng).
Các dự án nói trên được xây dựng theo hướng liên kết các điểm di sản - du lịch tại các làng gốm Bàu Trúc - làng dệt Mỹ Nghiệp và các làng gốm Bình Đức - Bình Tiến thành những hành trình trải nghiệm liên vùng. Hành trình này không chỉ cho phép du khách tham quan, tìm hiểu và trực tiếp tham gia các công đoạn thực hành di sản mà còn mở rộng sang trải nghiệm không gian văn hóa, lịch sử của người Chăm, khám phá cảnh quan thiên nhiên, ẩm thực và các loại hình nghệ thuật truyền thống của vùng duyên hải, cao nguyên.

Nghề thủ công truyền thống của người Chăm. Ảnh minh họa
Đặc biệt, thông qua mô hình, các cộng đồng chủ thể sẽ có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng và bí quyết nghề; đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực truyền dạy và quảng bá di sản ra ngoài phạm vi địa phương. Sự liên kết này góp phần hình thành mạng lưới kết nối di sản - du lịch xuyên tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa vùng, đồng thời bảo vệ và phát huy giá trị nghề làm gốm truyền thống của người Chăm một cách bền vững.
Đánh giá từ nhiều chuyên gia văn hoá cho thấy, việc phê duyệt Dự án Xây dựng mô hình di sản kết nối gắn với các hành trình du lịch để phát triển cộng đồng các dân tộc thiểu số có di sản tương đồng là một quyết định rất kịp thời và đầy ý nghĩa. Bởi lẽ, đây không chỉ là một dự án bảo tồn thuần túy, mà còn là một bước đi sáng tạo trong việc đưa di sản vào dòng chảy phát triển hiện đại.
Theo đó, khi những làng gốm Bàu Trúc, Bình Đức, Bình Tiến hay làng dệt Mỹ Nghiệp được kết nối với nhau thành một hành trình trải nghiệm liên vùng, thì di sản không còn đứng tách biệt mà được đặt trong một hệ sinh thái gắn liền với du lịch, thương mại.
Chia sẻ với Báo Công Thương, PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội, cho rằng, điều đáng quý là dự án này đi từ chính thế mạnh của cộng đồng dân tộc thiểu số ở đây là đồng bào Chăm để làm thành sản phẩm đặc thù. Nghề gốm, nghề dệt vốn đã được trao truyền từ bao thế hệ, nay sẽ có thêm sức sống mới khi trở thành điểm dừng chân trong những tuyến du lịch văn hóa.
Đặc biệt, nhiều ý kiến cho rằng, thông qua đó cơ hội để bảo tồn di sản vì vậy cũng được nhân lên, bởi di sản được gắn liền với nhu cầu thị trường, với những câu chuyện trải nghiệm của du khách. Người dân không chỉ giữ nghề để “giữ hồn” mà còn có thêm động lực kinh tế để sống bằng nghề, sống tốt hơn nhờ nghề.
Ở góc độc tích cực khác, những bàn tay khéo léo của người thợ Chăm sẽ không chỉ làm ra sản phẩm cho cộng đồng mình, mà còn làm ra những món quà văn hóa mang dấu ấn đặc sắc để trao cho bạn bè bốn phương. Du khách đến với các làng nghề không chỉ mang về một chiếc bình gốm hay một tấm thổ cẩm, mà mang về cả câu chuyện, cả ký ức về một nền văn hóa lâu đời. Chính điều đó sẽ biến di sản thành tài sản, biến văn hóa thành nguồn lực phát triển.
Mở ra thị trường rộng lớn
Theo ông Phạm Hải Quỳnh, Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á, những năm qua, du lịch đã thực sự trở thành chiếc cầu nối bền vững giúp văn hóa các dân tộc thiểu số lan tỏa và hồi sinh. Khi đặt chân đến các bản làng vùng cao, du khách không chỉ bị cuốn hút bởi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, mà còn mong muốn được chạm vào đời sống, trải nghiệm văn hóa và mang theo một phần hồn cốt bản địa sau mỗi chuyến đi.
Chính nhu cầu khám phá và trải nghiệm ấy đã mở ra một thị trường đầy tiềm năng cho sản phẩm thủ công truyền thống. Từ những tấm thổ cẩm dệt tay tinh xảo, chiếc bình gốm mộc mạc, cho đến món ăn dân dã nơi vùng cao tất cả đều được “thăng hoa” khi trở thành sản phẩm du lịch mang giá trị văn hóa và cảm xúc. Mỗi món hàng không chỉ là vật phẩm trao đổi, mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và sự trân trọng đối với di sản của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam.

Kết nối với du lịch tăng cơ hội để bảo tồn di sản. Ảnh minh họa
Còn theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, du lịch đã tạo ra một động lực kép, đó là vừa bảo tồn văn hóa, vừa mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho đồng bào. Những mô hình thành công ở nhiều nơi như du lịch cộng đồng ở Sa Pa, ở Mộc Châu, hay các làng nghề ở Hội An, Bát Tràng đã chứng minh rằng khi văn hóa được gắn với du lịch thì sản phẩm không chỉ là hàng hóa, mà còn là thông điệp, là câu chuyện để chinh phục trái tim du khách.
Từ thực tiễn ấy, để du lịch thực sự trở thành thị trường ổn định cho sản phẩm hàng hóa và đồng thời là động lực bảo tồn văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, theo các chuyên gia, cần tập trung vào một số giải pháp then chốt.
Trước hết, cần xây dựng mô hình phát triển bền vững gắn du lịch với cộng đồng. Điều này có nghĩa là người dân phải được đặt ở trung tâm của chuỗi giá trị, họ phải vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người thụ hưởng. Nhà nước và doanh nghiệp có thể hỗ trợ về quy hoạch, hạ tầng, quảng bá, nhưng chính cộng đồng phải được trao quyền, được tham gia vào việc tổ chức tour, đón khách, giới thiệu sản phẩm. Khi người dân thấy rõ lợi ích từ du lịch, họ mới có động lực giữ nghề, giữ văn hóa.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Một tấm vải thổ cẩm, một chiếc bình gốm không chỉ là vật phẩm truyền thống, mà có thể trở thành quà tặng cao cấp, sản phẩm thời trang, thậm chí bước vào các sàn thương mại điện tử toàn cầu. Muốn vậy, cần có sự kết hợp giữa nghệ nhân truyền thống và nhà thiết kế hiện đại, giữa bàn tay khéo léo của đồng bào với công nghệ sản xuất - truyền thông mới. Điều đó sẽ làm tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm, tạo thêm sức hút đối với du khách trong và ngoài nước.
Ngoài ra, du lịch văn hóa làng nghề chỉ phát huy hiệu quả khi có dòng khách ổn định. Vì vậy, các tuyến du lịch kết nối di sản được khuyến nghị cần được đưa vào bản đồ du lịch quốc gia, được quảng bá đồng bộ trên các nền tảng số, được lồng ghép trong những sự kiện văn hóa lớn. Mặt khác, cũng cần hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm qua các trung tâm thương mại, các cửa hàng lưu niệm ở đô thị lớn, sân bay, bến cảng… để hàng hóa của đồng bào có thể đến tay nhiều đối tượng khách hàng hơn.
Một yếu tố quan trọng được khuyến nghị đó là tăng cường đầu tư cho giáo dục và truyền dạy nghề trong cộng đồng. Nếu không có lớp trẻ tiếp nối, nghề truyền thống sẽ đứng trước nguy cơ mai một. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, khuyến khích thế hệ trẻ học nghề, sáng tạo trên nền tảng di sản cha ông để lại. Chính họ sẽ là lực lượng làm mới văn hóa, đưa di sản gắn với phát triển kinh tế, tạo sức sống mới cho đồng bào.