Hợp tác Việt Nam - Thụy Điển thúc đẩy lưới điện thông minh, bền vững

Việt Nam ưu tiên hiện đại hóa lưới điện, nâng cao truyền tải. Bên cạnh đó, hợp tác Thụy Điển mở cơ hội tăng cường hạ tầng điện và tích hợp năng lượng tái tạo.

Thúc đẩy hợp tác xây dựng hệ thống điện hiện đại

Với nhu cầu điện tăng cao, tốc độ triển khai năng lượng tái tạo nhanh và tham vọng xuất khẩu điện xanh sang các nước láng giềng, Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn về ổn định lưới điện, truyền tải và tích hợp nguồn năng lượng tái tạo. 

Để ứng phó, Việt Nam tìm kiếm các giải pháp truyền tải quy mô lớn, chi phí hợp lý và công nghệ lưới điện thông minh phục vụ truyền tải đường dài, giám sát thời gian thực và bảo đảm chất lượng điện công nghiệp. Trong khi đó, Thụy Điển là quốc gia đi đầu thế giới về hạ tầng năng lượng và đổi mới lưới điện số, có khả năng cung cấp chuyên môn sâu và mô hình hợp tác đã được kiểm chứng.

Trên cơ sở đó, Đại sứ quán Thụy Điển và Thương vụ Thuỵ Điển đã tổ chức sự kiện “Trao đổi chuyên đề: Kết nối năng lượng - Xây dựng hạ tầng điện hiệu quả cho một tương lai bền vững’’ vào chiều 1/12.

Phát biểu chào mừng, ông Johan Ndisi, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, khẳng định sự kiện có ý nghĩa thiết thực đối với tiến trình chuyển dịch năng lượng của cả Việt Nam và Thụy Điển.

Ông Johan Ndisi, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam phát biểu tại sự kiện.

Ông Johan Ndisi, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam phát biểu tại sự kiện.

Về quan hệ song phương, Đại sứ Johan Ndisi nhấn mạnh, Việt Nam và Thụy Điển có lịch sử hợp tác lâu dài, dựa trên nền tảng tin cậy. Năm nay, chuyến thăm Thụy Điển của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đánh dấu việc ký Thỏa thuận Đối tác Chiến lược theo lĩnh vực, xác lập tầm nhìn chung về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó năng lượng tiếp tục là trụ cột quan trọng.

Đại sứ đánh giá, Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ trong phát triển năng lượng, với nhu cầu điện dự kiến tăng 10 - 15% trong năm tới và công suất lắp đặt tiến gần 88 GW. Những kết quả này đặt ra yêu cầu cao hơn về ổn định hệ thống, truyền tải đường dài và tích hợp nguồn tái tạo trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Từ thực tiễn đó, Đại sứ Johan Ndisi khẳng định, Thụy Điển có đủ kinh nghiệm để đồng hành cùng Việt Nam. Hơn 98% điện năng của Thụy Điển đến từ năng lượng tái tạo và điện hạt nhân, vận hành trên hệ thống truyền tải có độ tin cậy hàng đầu. Bên cạnh đó, Thụy Điển cũng là quốc gia dẫn đầu về công nghệ HVDC, các giải pháp chất lượng điện năng, lưới điện thông minh và chẩn đoán bằng AI, phù hợp với điều kiện cung - cầu phân bố không đồng đều theo địa lý, tương đồng với Việt Nam

Đại sứ khẳng định, sự kiện là dịp để các bên trao đổi quan điểm, kết nối và tìm kiếm giải pháp chính sách, kỹ thuật nhằm đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.

Một hệ thống điện ổn định và hạ tầng truyền tải hiện đại là điều kiện tiên quyết cho quá trình chuyển đổi xanh; quan hệ đối tác bền chặt Việt Nam và Thụy Điển sẽ tiếp tục là nền tảng hướng tới tương lai năng lượng bền vững của hai nước’’ - Đại sứ Thuỵ Điển nhấn mạnh.

Định hình lưới điện quốc gia hiện đại, đồng bộ

Tại sự kiện, ông Cao Đức Huy, Phòng Phát triển hệ thống điện (Viện Năng lượng), đã trình bày tham luận “Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh: Mục tiêu lưới điện đến năm 2030 và 2050”. 

Theo đó, hằng năm, Viện Năng lượng triển khai khoảng 200 dự án, tư vấn chiến lược, quy hoạch và đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, đồng thời duy trì hợp tác với nhiều đối tác trong và ngoài nước, trong đó có cơ quan hợp tác phát triển Thụy Điển.

Ông Cao Đức Huy cho biết, Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đặt ra những mục tiêu phụ tải và công suất nguồn ở mức rất cao. Dự báo đến năm 2030, phụ tải điện đạt khoảng 100 GW, tương đương mức phụ tải của Hàn Quốc năm 2025; đến năm 2050 tăng lên 228 GW. Đây là mức tăng trưởng gần gấp đôi chỉ trong 5 năm tới so với hiện nay.

Ông Cao Đức Huy, Phòng Phát triển hệ thống điện, Viện Năng lượng, trình bày tham luận “Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh: Mục tiêu lưới điện đến năm 2030 và 2050”.

Ông Cao Đức Huy, Phòng Phát triển hệ thống điện, Viện Năng lượng, trình bày tham luận “Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh: Mục tiêu lưới điện đến năm 2030 và 2050”.

Về nguồn điện, công suất đặt đến năm 2030 ước đạt 236 GW, tức tăng gần ba lần so với hiện tại. Đến năm 2050, công suất đặt có thể lên tới 839 GW, trong đó tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm tỷ lệ lớn. Khối lượng tăng trưởng phụ tải và nguồn như trên đặt ra yêu cầu vô cùng lớn cho hệ thống truyền tải. 

Do đó, mục tiêu không chỉ là mở rộng quy mô mà còn hiện đại hóa, linh hoạt hóa và đảm bảo khả năng vận hành thông minh để đáp ứng tỷ lệ năng lượng tái tạo cao. Viện Năng lượng xây dựng chương trình phát triển lưới điện tương ứng cho từng giai đoạn. Đến năm 2030, hệ thống truyền tải vẫn chủ yếu sử dụng đường dây 500 kV AC, dự kiến bổ sung 8 tuyến liên vùng, tổng chiều dài khoảng 2.400 km, tức gấp 1,5 lần chiều dài hệ thống 500 kV hiện có. 

Bên cạnh đó, giai đoạn sau năm 2030, nhu cầu truyền tải Bắc - Trung - Nam tăng đột biến do các nguồn năng lượng tái tạo tập trung nhiều ở miền Trung và miền Nam, trong khi miền Bắc có tiềm năng thấp hơn. 

Dự báo, đến năm 2035, nhu cầu truyền tải từ Trung Bộ ra Bắc Bộ có thể lên tới 69.000 MW trên quãng đường 700 - 1.000 km. Với quy mô này, công nghệ AC không còn phù hợp, buộc phải xem xét chuyển sang HVDC. 

Ông Cao Đức Huy cho biết, trong Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh, Viện đề xuất xây dựng ít nhất hai hệ thống truyền tải HVDC ba cực, điện áp dự kiến 800 kV, công suất từ 5.000 - 10.000 MW, chiều dài 700 - 1.000 km. Ngoài ra, quy hoạch cũng tính đến các tuyến dự phòng từ Nam Trung Bộ hoặc Nam Bộ ra Bắc Bộ. Tới năm 2050, hệ thống truyền tải hai bên dự kiến đạt quy mô 52 - 72 GW ở trạm converter và 7.200 - 13.300 MW đối với dây dẫn.

Dẫu vậy, cũng theo đại diện Viện Năng lượng, tổng mức nhu cầu đầu tư truyền tải theo quy hoạch ước 3 tỷ USD mỗi năm, cao hơn nhiều so với mức đầu tư hiện nay. Thách thức lớn nhất không chỉ là “đầu tư bao nhiêu” mà là “đầu tư như thế nào”. 

Dù Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đã phân định sơ bộ phần nhà nước đầu tư và phần xã hội hóa, nhưng cơ chế lợi nhuận và huy động vốn cho các dự án truyền tải xã hội hóa hiện chưa rõ ràng.

Theo đó, 3 nhóm thách thức chính được ông Cao Đức Huy nêu lên gồm, năng lực huy động vốn, nhân lực và quỹ đất; thiếu hụt kinh nghiệm triển khai công nghệ mới như HVDC, thiết bị vận hành hệ thống có tỷ lệ năng lượng tái tạo cao và các vấn đề cơ chế, chính sách như cơ chế lợi nhuận cho nhà đầu tư truyền tải và cơ chế dịch vụ phụ trợ.

Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh có mục tiêu rất tham vọng, kéo theo thách thức lớn về đầu tư, công nghệ và chính sách. Trong bối cảnh đó, hợp tác quốc tế, trong đó có hợp tác với Thụy Điển, sẽ đóng vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam đạt được các mục tiêu này” - ông Cao Đức Huy cho biết thêm.

Chương trình trao đổi chuyên đề sẽ tạo nền tảng cho trao đổi kỹ thuật, hợp tác chiến lược và đối thoại chính sách nhằm hỗ trợ phát triển hệ thống điện bền vững, sẵn sàng cho tương lai tại Việt Nam. Đồng thời, chia sẻ thách thức truyền tải và phân phối theo Quy hoạch Điện VIII (PDP8); khám phá giải pháp truyền tải điện đường dài quy mô lớn, chi phí hợp lý. Bên cạnh đó, giới thiệu đổi mới của Thụy Điển trong lĩnh vực chất lượng điện; xác định mô hình tài chính và khung pháp lý hỗ trợ hiện đại hóa hạ tầng; thúc đẩy phát triển năng lượng toàn diện và chuyển đổi nguồn nhân lực; tăng cường quan hệ đối tác cho dự án thí điểm; chuyển giao công nghệ và liên doanh.

Lê Vân
Bình luận

Có thể bạn quan tâm