Hiện thực hóa Net Zero: Doanh nghiệp mở đường, cơ chế là bệ đỡ

Doanh nghiệp mở đường cho mục tiêu trung hòa carbon, thị trường tín chỉ carbon dần đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, để hiện thực hóa Net Zero, hoàn thiện cơ chế là then chốt.

Bước đi thực tiễn hướng tới Net Zero

Đầu tháng 4/2025, hai doanh nghiệp chủ lực của Tập đoàn TH gồm Công ty Cổ phần Sữa TH và Công ty TNHH Nước tinh khiết Núi Tiên đã chính thức được chứng nhận đạt trung hòa carbon theo tiêu chuẩn PAS 2060:2014. Đây là lần đầu tiên một doanh nghiệp Việt Nam được Control Union, tổ chức chứng nhận quốc tế độc lập, thẩm định và xác nhận, minh chứng cho sự minh bạch, chuẩn hóa và toàn cầu hóa dữ liệu phát thải.

Việc sử dụng đèn led và các tấm lợp lấy sáng làm giảm lượng điện tiêu thụ. Ảnh: TH

Việc sử dụng đèn led và các tấm lợp lấy sáng làm giảm lượng điện tiêu thụ. Ảnh: TH

Để đạt chứng nhận, hai công ty đã tiến hành kiểm kê phát thải khí nhà kính theo Tiêu chuẩn nghị định thư doanh nghiệp – chuẩn mực kế toán carbon được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Tổng lượng phát thải được trung hòa tại Công ty Cổ phần Sữa TH là 26.670,14 tấn CO₂, trong khi Công ty TNHH Nước tinh khiết Núi Tiên là 11.631,68 tấn CO₂.

Không chỉ dừng lại ở số liệu, doanh nghiệp đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp giảm phát thải như tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng, chuyển đổi sang năng lượng xanh, cải tiến trang thiết bị công nghệ, quản lý chất thải hiệu quả. Bên cạnh đó, TH lựa chọn đầu tư vào các dự án bù đắp carbon mang lại giá trị xã hội, môi trường và kinh tế, đồng thời góp phần thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc.

Một dự án điển hình là Dự án phân phối miễn phí bếp đun tiết kiệm năng lượng VERRA 2548, thông qua đó TH đã trao tặng hơn 200.000 bếp cho người dân vùng sâu, vùng xa, giúp giảm khoảng 400.000 tấn CO₂ phát thải. Doanh nghiệp cũng tham gia bù đắp carbon bằng chứng chỉ năng lượng tái tạo (IREC), đóng góp vào các dự án điện gió trong nước và thúc đẩy sự phát triển của thị trường carbon Việt Nam.

Những bước đi này không chỉ tạo nền tảng dữ liệu và năng lực quản lý khí thải, mà còn giúp doanh nghiệp chuẩn bị cho giai đoạn tiến tới Net Zero, đồng thời khẳng định vai trò tiên phong của doanh nghiệp Việt Nam trên bản đồ khí hậu toàn cầu.

Không chỉ riêng TH, thị trường tín chỉ carbon tự nguyện tại Việt Nam đang dần hình thành và ghi nhận những tín hiệu tích cực. Ông Hoàng Anh Dũng, Tổng Giám đốc Công ty Intraco, cho biết một số doanh nghiệp Việt Nam đã bán thành công tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế lớn. Đáng chú ý, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đã mua tín chỉ với giá khoảng 10 USD/tín chỉ, còn Giải bóng đá FIFA mua với giá khoảng 5 USD/tín chỉ. Những tín chỉ này được tạo ra từ các dự án có tác động xã hội rõ rệt, như cung cấp nước sạch cho hộ nghèo vùng Đồng bằng sông Cửu Long hay dự án điện mặt trời do doanh nghiệp Việt Nam vận hành.

Hiện nay, Việt Nam nằm trong top 4 quốc gia có số lượng dự án bán tín chỉ carbon tự nguyện nhiều nhất thế giới, với hơn 300 dự án được đăng ký. Dù vậy, theo ông Dũng, giá tín chỉ vẫn ở mức thấp so với mặt bằng quốc tế, đặt ra thách thức vừa là cơ hội để phát triển mạnh hơn thị trường carbon trong nước.

4 rào cản trên hành trình Net Zero

Tuy nhiên, để thực sự đạt Net Zero vào năm 2050, Việt Nam vẫn phải vượt qua nhiều rào cản lớn. Theo PGS.TS Phạm Thị Mai Thảo, Trưởng Bộ môn Quản lý môi trường (Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội), những rào cản này trải dài từ thể chế, tài chính, công nghệ đến năng lực thực thi.

Dây chuyền sản xuất của Công ty TNHH Nước tinh khiết Núi Tiên. Ảnh: TH

Dây chuyền sản xuất của Công ty TNHH Nước tinh khiết Núi Tiên. Ảnh: TH

Thứ nhất, rào cản về thể chế và điều phối. Việt Nam hiện chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh cho kinh tế carbon, tín chỉ carbon và hệ thống đo đếm, báo cáo, thẩm định (MRV) phát thải. Công tác quản lý còn phân tán, khi trách nhiệm giảm phát thải chia cho nhiều bộ, ngành mà chưa có cơ chế điều phối thống nhất. Các công cụ tài chính như thuế xanh, tín dụng xanh hay đấu giá tín chỉ chưa vận hành rõ ràng. Đặc biệt, quy hoạch năng lượng, đất đai và giao thông chưa tích hợp mục tiêu Net Zero, dẫn đến xung đột khi triển khai thực tế.

Thứ hai, rào cản về tài chính và nguồn lực. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và UNDP, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040 để thực hiện chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận vốn quốc tế còn hạn chế do thiếu minh bạch dữ liệu và xếp hạng tín nhiệm quốc gia thấp. Hạ tầng năng lượng tái tạo trong nước cũng chưa đáp ứng yêu cầu, từ hệ thống truyền tải, lưu trữ đến đấu nối. Đáng chú ý, hơn 50% cơ cấu năng lượng hiện nay vẫn phụ thuộc vào than, khiến quá trình loại bỏ gặp nhiều rào cản về chính trị và xã hội.

Thứ ba, rào cản về năng lực và công nghệ. Việt Nam thiếu công cụ kiểm kê và quản lý phát thải theo chuỗi cung ứng; chi phí đầu tư công nghệ sạch cao, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguồn dữ liệu và nhân lực cho các báo cáo bền vững, ESG (Môi trường, xã hội và quản trị), Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) hay đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) còn hạn chế. Doanh nghiệp vẫn bị động trước các cơ chế quốc tế như CBAM của EU, sáng kiến JETP hay các tiêu chuẩn Net Zero trong chuỗi cung ứng. Thị trường tín chỉ carbon trong nước chưa hình thành, khiến doanh nghiệp chưa có công cụ bù trừ phát thải.

Thứ tư, rào cản về năng lực kỹ thuật và giám sát. Hệ thống MRV còn thiếu và yếu, dữ liệu phát thải phân tán, không đồng nhất giữa các ngành. Nguồn nhân lực kỹ thuật hạn chế, đặc biệt ở địa phương. Các công cụ pháp lý để bắt buộc doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải chưa đủ mạnh. Ngân sách cho hoạt động kiểm kê định kỳ, nhất là trong nông nghiệp và quản lý chất thải, còn eo hẹp.

Để vượt qua những rào cản này, theo ông Hoàng Anh Dũng, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp: nâng tỷ lệ năng lượng tái tạo trên 90%, mở rộng diện tích rừng trồng 1,71 triệu ha/năm, giảm hoặc loại bỏ khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh, thu hồi >90% khí metan từ bãi rác và chăn nuôi, áp dụng canh tác ngập khô xen kẽ trên 90% diện tích lúa, tận dụng >90% phụ phẩm nông nghiệp, phát triển công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon, cùng hydrogen xanh và nhiên liệu sinh học cho >90% phương tiện và lò đốt công nghiệp.

Đối với doanh nghiệp, việc chủ động giảm phát thải trên toàn chuỗi giá trị, chuyển đổi công nghệ, thay đổi mô hình vận hành và đầu tư vào các dự án loại bỏ carbon là điều kiện bắt buộc. Trung hòa carbon bước đầu đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng dữ liệu, năng lực quản lý khí thải, chuẩn bị cho giai đoạn tiến tới Net Zero.

Trong giai đoạn Việt Nam đang hoàn thiện khung pháp lý về tăng trưởng xanh và tín chỉ carbon, bà Lưu Thị Thu Hiền, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm Sữa TH, hành trình trung hòa carbon là nỗ lực chung của bốn trụ cột: Nhà nước - kiến tạo hành lang pháp lý; Doanh nghiệp - hành động thực chất; Báo chí – lan tỏa và phản biện; Cộng đồng - thay đổi hành vi tiêu dùng.

Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật liên quan trung hòa carbon, tạo nền tảng cho các doanh nghiệp và thị trường carbon phát triển. Tại Quyết định 232/QĐ-TTg ngày 24/1/2025 về Thành lập và phát triển thị trường carbon đặt mục tiêu xây dựng khung pháp lý, thí điểm sàn giao dịch giai đoạn 2025–2028, vận hành chính thức từ năm 2029.

Thực tế này cho thấy, doanh nghiệp tiên phong và thị trường carbon đang dần đi vào thực tiễn, nhưng hành trình Net Zero vẫn còn dài và nhiều thách thức. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, áp dụng hiệu quả các công cụ định giá carbon và thúc đẩy mô hình sản xuất carbon thấp là yếu tố quyết định để Việt Nam không chỉ đáp ứng cam kết quốc tế mà còn khai thác cơ hội phát triển kinh tế xanh, bền vững trong thập kỷ tới.

“Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong những năm tới. Nhu cầu về điện dự báo tăng từ 12 - 15%. Nhưng Việt Nam cũng duy trì mục tiêu giảm phát thải. Đó là một thách thức",Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng chia sẻ.

Nguyễn Hạnh
Bình luận