Doanh nghiệp quốc tế kiến nghị nâng ưu đãi và minh bạch triển khai EPR
Tại Hội thảo phổ biến, lấy ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật lĩnh vực nông nghiệp và môi trường do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức sáng 29/8, vấn đề trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR) cùng các quy định liên quan nhận được sự quan tâm đặc biệt của các doanh nghiệp quốc tế.

Toàn cảnh hội thảo
Bà Lê Thị Hoài Thương, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Việt Nam), đánh giá cao nỗ lực của Bộ trong việc xây dựng khung pháp lý rõ ràng, minh bạch, phù hợp với xu thế phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Bà nhấn mạnh, đây là chính sách quan trọng, tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và cam kết môi trường của doanh nghiệp, song dự thảo vẫn còn nhiều thách thức khi triển khai.
Bà Thương kiến nghị Chính phủ xem xét các chính sách ưu đãi cho bao bì tái chế, bao bì nhựa PET tái chế (rPET) hoặc các vật liệu thân thiện môi trường khác, ví dụ miễn thực hiện nghĩa vụ EPR với các loại bao bì này, nhằm khuyến khích chuyển đổi sử dụng vật liệu thân thiện môi trường. Đồng thời, chi phí thực thi EPR cần được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp khi quyết toán thuế.
Theo dự thảo Nghị định về Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đề xuất cho phép trừ khoản đóng góp vào Quỹ Bảo vệ môi trường khi xác định thu nhập chịu thuế, AmCham kiến nghị các khoản chi phí tổ chức tái chế sản phẩm, bao bì cũng nên được áp dụng chính sách khấu trừ tương tự.
Cùng quan điểm, bà Lê Thị Hồng Nhi, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Anh tại Việt Nam (BritCham), cho rằng chi phí thực thi EPR cần được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ khi quyết toán thuế. Bà cũng nhấn mạnh cần bổ sung cơ chế sử dụng nguồn đóng góp tài chính EPR để tăng cường cơ sở hạ tầng thu gom, tái chế – một thách thức lớn tại Việt Nam hiện nay.
“Mức đóng góp tài chính nên được điều chỉnh theo độ thân thiện môi trường của sản phẩm, tạo động lực khuyến khích doanh nghiệp phát triển bao bì thân thiện”, bà Nhi cho biết. Bà cũng đề xuất khuyến khích thiết kế sinh thái, bao bì đơn vật liệu và tăng vai trò của chính quyền địa phương trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt để EPR gắn liền với thực tiễn thu gom, xử lý rác.
Ông Jonathan Sourintha, đại diện EuroCham Việt Nam, hoan nghênh những tiến bộ trong dự thảo Luật, nhưng cho rằng cần hoàn thiện thêm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Ông kiến nghị nên có chính sách ưu đãi rõ ràng cho bao bì nhựa tái chế, thậm chí miễn thực hiện EPR đối với loại bao bì này. Nếu chưa áp dụng ngay, mức phí EPR nên thấp hơn so với bao bì từ nhựa nguyên sinh.
Về điều chỉnh tỷ lệ tái chế bắt buộc, ông Sourintha nhấn mạnh cần thực hiện theo lộ trình thực tế, mỗi chu kỳ chỉ tăng 2 – 5% tùy năng lực và hạ tầng thu gom, tái chế hiện tại của Việt Nam. Chính phủ cũng nên có chính sách ưu đãi đầu tư vào hạ tầng tái chế và đổi mới bao bì. Bộ Nông nghiệp và Môi trường có thể cân nhắc lộ trình từng bước, kết hợp đánh giá định kỳ mức độ sẵn sàng của hạ tầng thu gom, tái chế và tham vấn các bên liên quan để đảm bảo tính khả thi.
Một vấn đề khác được các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế quan tâm là quy định về xử lý nước thải tại khu công nghiệp. Theo dự thảo, nếu khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải tập trung, doanh nghiệp tại khu đó sẽ không được mở rộng sản xuất, nâng công suất hay xây dựng nhà máy mới. Các hiệp hội cho rằng, quy định này chỉ nên áp dụng bắt buộc với các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong trường hợp chưa có, doanh nghiệp cần được phép vận hành hệ thống xử lý nước thải riêng đã được cơ quan thẩm quyền phê duyệt.
Phản hồi kiến nghị về giấy phép môi trường và EPR của doanh nghiệp
Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, đối với các dự án có thay đổi nhằm cải thiện môi trường, luật hiện hành không bắt buộc chủ dự án phải điều chỉnh giấy phép môi trường. Việc điều chỉnh chỉ được thực hiện trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Hưng Thịnh, Phó Cục trưởng Cục Môi trường
“Thực tế, nhiều doanh nghiệp mong muốn cơ quan nhà nước ghi nhận các cải thiện tích cực này. Việc điều chỉnh giấy phép không chỉ thể hiện cam kết bảo vệ môi trường mà còn tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Ví dụ, các doanh nghiệp ngành sản xuất nước giải khát luôn hướng tới sử dụng tiết kiệm nước sạch và mong muốn những nỗ lực này được ghi nhận”, ông Nguyễn Hưng Thịnh chia sẻ. Luật hiện hành thiết lập cơ chế này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và khuyến khích hoạt động thân thiện với môi trường.
Liên quan đến EPR, theo ông Thịnh, dự thảo lần này chưa đề cập việc sửa đổi giấy phép. Việc nghiên cứu, rà soát và sửa đổi tổng thể sẽ được thực hiện trong dự án sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường dự kiến năm 2026. Hiện Bộ cũng đang xây dựng dự thảo nghị định liên quan, đồng thời trao đổi trực tiếp với đại diện doanh nghiệp và hiệp hội để ghi nhận ý kiến.
Về chi phí hợp lệ của doanh nghiệp, qua làm việc với Bộ Tài chính, Cục Môi trường khẳng định nội dung này không thuộc phạm vi Luật Bảo vệ Môi trường, mà được thực hiện theo các quy định pháp luật khác, như Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và chế độ kế toán hiện hành.
Trong định hướng sửa đổi Luật, cơ chế và hình thức đóng góp của doanh nghiệp sẽ được xác định rõ, nhằm giải quyết vấn đề một cách căn cơ, với mục tiêu hoàn thiện trong năm 2026. Quan điểm của Bộ là không khuyến khích doanh nghiệp nộp tiền thay cho trách nhiệm môi trường. Thay vào đó, doanh nghiệp trực tiếp thực hiện thông qua xây dựng hệ thống thu gom, thu hồi và tái chế sản phẩm bao bì – hay còn gọi là “trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất” – vừa thúc đẩy hệ thống tái chế tại Việt Nam, vừa tránh chuyển gánh nặng sang người tiêu dùng.
“Chỉ giảm tỷ lệ Fs (định mức chi phí tái chế đối với một đơn vị khối lượng sản phẩm, bao bì) và cho phép doanh nghiệp nộp tiền thay có thể khuyến khích doanh nghiệp lựa chọn hình thức này thay vì thực hiện trách nhiệm trực tiếp, đồng thời khoản tiền sẽ được hạch toán vào chi phí, làm méo mó mục tiêu bảo vệ môi trường”, ông Nguyễn Hưng Thịnh nhấn mạnh.
Trong Luật sửa đổi, tinh thần là hạn chế tối đa việc đóng tiền thay, đồng thời nghiên cứu các cơ chế khác như thuế hoặc phí đối với trách nhiệm xử lý chất thải. Bộ đã trao đổi với Bộ Tài chính và nhận được sự đồng thuận. Dự kiến năm 2026 sẽ có nghiên cứu đồng bộ giữa Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Thuế bảo vệ môi trường và các nghị định về phí để xác định rõ trách nhiệm doanh nghiệp, khi đó các chi phí liên quan sẽ được hạch toán hợp lý.
Nếu doanh nghiệp nộp tiền vào ngân sách nhà nước, đây cũng là một hướng giải quyết căn cơ cho các kiến nghị liên quan. Về ưu đãi sản phẩm bao bì thân thiện môi trường, Luật chỉ quy định các đối tượng đủ điều kiện, còn chính sách cụ thể sẽ được thể hiện trong văn bản về thuế, phí do Bộ Tài chính thẩm định.
Bộ ghi nhận nhiều kiến nghị từ doanh nghiệp nhưng mong muốn các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ các quy định về thuế trước khi đề xuất cơ chế ưu đãi cụ thể. Việc này giúp Bộ đánh giá tác động chính xác và đề xuất cơ chế ưu đãi hợp lý. Hiện nay, Bộ phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng đề án tổng thể xác định đối tượng và cơ chế ưu đãi, đảm bảo đồng bộ với luật thuế và tránh trùng lặp pháp luật.
Về điều chỉnh tỷ lệ tái chế, đại diện Cục Môi trường cho hay, dự thảo nghị định đã đưa ra các mức khống chế cụ thể, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp lập kế hoạch và thực hiện trách nhiệm. Bộ tiếp tục thu thập ý kiến doanh nghiệp và phối hợp với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Tư pháp, để hoàn thiện nội dung trong nghị định sắp tới, đồng thời bảo vệ quan điểm phù hợp với định hướng của luật.