Giảm tác động biến đổi khí hậu: Những nỗ lực của Việt Nam

Tác động từ biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng nghiêm trọng, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, ngoài đưa ra các cam kết cắt giảm khí thải, phải có cách tiếp cận mới.

CôngThương - Trên bàn đàm phán

Mặc dù đã có khá nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức, nhưng một hiệp định ràng buộc pháp lý đối với cắt giảm lượng phát thải trên phạm vi toàn cầu vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc về BĐKH lần thứ 17(COP17) tại Nam Phi được xem là một trong những sự kiện nóng bỏng, gay gắt trong lịch sử. Ông Hoàng Mạnh Hòa- Trưởng phòng BĐKH, Cục Khí tượng Thủy văn và BĐKH (Bộ Tài nguyên và Môi trường) – nhận định: “Thời gian hội nghị kéo dài hơn so với dự kiến, nhưng kết quả đạt được rất hạn chế, thể hiện qua văn kiện tổng kết “Khung hành động Durban”.

COP19 được tổ chức tại  Vacsava (Ba Lan) vào cuối năm 2013, nhằm xác định mối quan hệ giữa COP và Quỹ khí hậu xanh. Theo đó, Ủy ban điều hành công nghệ sẽ đưa ra báo cáo về rào cản phát triển, chuyển giao công nghệ. Các cuộc đàm phán cũng sẽ được tiếp tục để thông qua thỏa thuận quốc tế mới mang tính ràng buộc pháp lý về ứng phó với BĐKH toàn cầu.

Tuyên bố tất cả các quốc gia đều phải tuân thủ cam kết về một hiệp định ràng buộc pháp lý đối với cắt giảm lượng phát thải dự kiến sẽ được thông qua năm 2015 và có hiệu lực từ năm 2020, của COP – 17 đã không được các quốc gia phát triển ủng hộ. Ông Hòa nói: “COP – 17 buộc phải sử dụng giải pháp mềm dẻo hơn là tiếp tục dành 4 năm (2012-2015) để thảo luận về khung cam kết mới và 5 năm tiếp theo (2016-2020) để ký thông qua khung pháp lý này trước khi chính thức đưa vào thực hiện sau năm 2020”.

Cũng nhờ sự mềm dẻo đó, COP18 đã đạt được một số kết quả và ghi nhận: “Nguồn tài chính cho Quỹ Khí hậu xanh chưa đủ để vận hành bộ máy hành chính của Quỹ”. Thời kỳ cam kết lần thứ 2 của Nghị định thư Kyoto sẽ kéo dài 8 năm, từ ngày 1/1/2013 đến ngày 31/12/2020. Tuy nhiên, các nước có lượng khí thải lớn đều lấy lợi ích kinh tế, chính trị làm cơ sở đàm phán và đưa ra cam kết cắt giảm và hạn chế phát thải khí nhà kính định lượng thấp hơn nhiều so với yêu cầu. Nhật Bản, Canada, Liên bang Nga, New Zealand không tham gia ký cam kết lần thứ hai. Các nước đang phát triển có lượng phát thải lớn (Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Braxin) chưa đưa ra cam kết mang tính ràng buộc pháp lý về cắt giảm phát thải KNK định lượng trong thời kỳ này. Vì vậy, “khó có thể giới hạn nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng dưới 2OC vào cuối thế kỷ này so với thời kỳ tiền công nghiệp”- ông Hòa cho hay.

Nỗ lực giảm thiểu

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mất rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp ước tính làm phát thải 19,38 triệu tấn CO2, chiếm 18,7% tổng lượng khí phát thải ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã ban hành các chiến lược quan trọng về ứng phó với BĐKH và quản trị tài nguyên khoáng sản.n

Chiến lược quốc gia về BĐKH của Việt Nam ban hành sau 4 năm thực hiện “Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH” được xem là nền tảng cho các chiến lược khác khi xác định “thích ứng và giảm nhẹ phát thải KNK phải tiến hành đồng thời với phát triển kinh tế - xã hội”.  Bên cạnh đó, nhà nước tiếp tục can thiệp và ban hành các chính sách nhằm tăng cường hiệu quả của quản lý hoạt động khoáng sản, như Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Nghị quyết 103/NQ-CP ngày 22/12/2011 về Chương trình hành động của Chính phủ về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030…

Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn, cho hay, Tuyên bố chung giữa Việt Nam và Na Uy về “Hợp tác thực hiện sáng kiến giảm phát thải thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng ở các nước đang phát triển (REDD+)” đã tạo cơ sở tài trợ Chương trình UN-REDD Việt Nam giai đoạn II từ 2012-2015. Nhiều hoạt động về REDD+ đã được thực hiện cả ở trong nước và quốc tế, nhằm tiếp tục nâng cao năng lực về tổ chức, thể chế và kỹ thuật thực hiện REDD+ ở Việt Nam. Hy vọng đến năm 2020, sẽ thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy hoạch cho lâm nghiệp, nâng tỷ lệ đất rừng lên 45%, quản lý bền vững và có hiệu quả 8,132 triệu ha rừng sản xuất, 5,842 triệu ha rừng phòng hộ và 2,271 triệu ha rừng đặc dụng.

Thanh Huyền

Bình luận