Giữa không gian mờ sương của Suối Giàng, vùng đất sở hữu quần thể chè Shan Tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi, hành trình gìn giữ và nâng tầm cây chè của bà Lâm Thị Kim Thoa - Giám đốc Hợp tác xã trà Suối Giàng đã trở thành câu chuyện tiêu biểu của nông nghiệp bản địa biết vượt khó để vươn lên. Từ thời điểm nghề trà đứng trước nguy cơ bị mai một, bà Thoa cùng một nhóm hộ dân đã gây dựng Hợp tác xã Suối Giàng, từng bước chuẩn hóa kỹ thuật, đầu tư công nghệ và đưa trà Shan Tuyết vươn tới thị trường quốc tế.
Những nỗ lực bền bỉ ấy đã giúp hồi sinh nghề chè truyền thống của đồng bào Mông, tạo sinh kế ổn định cho người dân và mở ra hướng phát triển mới dựa trên chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và chuyển đổi số. Với bà Thoa, làm trà là giữ lấy linh hồn núi rừng, là câu chuyện của trách nhiệm và niềm tin.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, Bà Lâm Thị Kim Thoa đã chia sẻ về hành trình giữ nghề, xây dựng thương hiệu và những định hướng phát triển của chè Shan Tuyết Suối Giàng.

Bà Lâm Thị Kim Thoa - Giám đốc Hợp tác xã trà Suối Giàng. Ảnh: Nguyễn Hương
Từ triết lý làm trà đến bí quyết giữ trọn hồn Shan Tuyết
- Những năm đầu thành lập Hợp tác xã Suối Giàng, đâu là thách thức lớn nhất mà chị phải đối mặt khi thuyết phục bà con giữ nghề?
Bà Lâm Thị Kim Thoa: Năm 2007, Hợp tác xã Suối Giàng ra đời tại vùng đặc biệt khó khăn, với dân số 98% là người Mông, con đường cấp phối gồ gề, dốc cao quanh co khúc khuỷu, trình độ dân trí còn thấp, người dân còn chưa thông thạo tiếng phổ thông. Tuy nhiên, điều đó đã không cản được bước chân chúng tôi. Và chúng tôi, với " 4 Không - 4 Quyết": “Không có nguồn lực về tài chính - Không nhân lực về kỹ thuật sản xuất chế biến chè - Không mặt bằng để xây dựng nhà xưởng, trụ sở giao dịch - Không có kinh nghiệm quản lý”. “Quyết lấy lại thương hiệu cho vùng chè Suối Giàng - Quyết xây dựng đội ngũ lao động là người Bản địa - Quyết tâm giữ gìn và bảo vệ vùng chè quý - Quyết không lùi bước”.
Thách thức lớn nhất là không nhân lực về kỹ thuật sản xuất chế biến chè. Trong khi đó, người học về sản xuất chè hiếm có, đặc biệt người Mông Suối Giàng vốn chỉ biết thu hái chè tươi và chưa có kiến thức về chế biến. Đặc biệt, tỷ lệ mù chữ còn cao, thói quen sống vốn đơn giản và ngại giao tiếp. Câu nói thuở đầu khi bắt đầu mà chúng tôi nhận được “Trà toàn người Mông làm thì uống ra cái gì!” vừa là động lực vừa là mũi nhọn để chúng tôi quyết tâm.
Giải pháp cấp thiết là mời người có kinh nghiệm điều hành sản xuất, chế biến và kỹ thuật cao về trà, đào tạo theo cách cầm tay chỉ việc, đồng thời đưa đi giao lưu, học hỏi ở các nhà máy khác.
- Chị có thể chia sẻ rõ hơn về quy trình “làm trà bằng sự thấu hiểu”, điều mà chị nhiều lần nhắc đến như một triết lý nghề của mình?
Bà Lâm Thị Kim Thoa: Làm trà cần huy động tất các giác quan “mắt quan sát sự chuyển động của cánh trà trong từng công đoạn; tay kiểm soát nhiệt; mũi kiểm soát hương và miệng kiểm soát vị; đặc biệt, cần nhất là cái “tâm” của người làm trà, không ví lợi nhuận mà đánh tráo để giữ chất lượng, bởi có chất lượng mới tạo được niềm tin với người uống trà và giữ được thương hiệu.

Bà Lâm Thị Kim Thoa giới thiệu sản phẩm trà Shan Tuyết Suối Giàng. Ảnh: NVCC
Khát vọng nâng tầm chè Shan Tuyết trên bản đồ trà Việt
- Hợp tác xã Suối Giàng là đơn vị tiên phong trong ứng dụng công nghệ số vào truy xuất nguồn gốc chè. Chị đánh giá hiệu quả của mô hình “Truy xuất tới từng gốc chè” ra sao?
Bà Lâm Thị Kim Thoa: Không tự nhận là đơn vị đứng đầu trong sản xuất chế biến trà Suối Giàng nhưng lại là đơn vị đi đầu trong mọi hoạt động để giữ gìn và bảo vệ thương hiệu trà Suối Giàng thì nói mãi cũng mệt, đi mãi cũng lâu, trăn trở mãi cũng tìm ra ý tưởng. Đó là: Phải có công nghệ kỹ thuật hỗ trợ. Cứ mạnh dạn nêu ý tưởng với các cấp là: Vùng chè Suối Giàng cần được bảo tồn, cần được định vị bằng công nghệ số là mã QR và được công nhận vùng chè hữu cơ.
Từ đó, các gói sản phẩm trà của Hợp tác xã Suối Giàng đều dán tem truy suất nguồn gốc. Cây chè được thí điểm gắn mã QR. Từ mong muốn đến thực tiễn cho thấy, công nghệ số là công cụ hữu dụng để gắn kết niềm tin nhanh hơn giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Giúp khảng định vị trí thương hiệu sản phẩm và lan tỏa nhanh hơn phương pháp truyền thống vẫn hay dùng tới. Ngày càng gia tăng giá trị vùng chè, các sản phẩm trà.
- Chị kỳ vọng gì cho tương lai của chè Shan Tuyết Suối Giàng trong 5-10 năm tới, đặc biệt là trong việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho sản phẩm đặc sản vùng cao?
Bà Lâm Thị Kim Thoa: Đã dấn thân vào con đường trà đồng nghĩa với việc từ bỏ những giấc mơ xa vời để tận tậm, tận lực với báu vật trời ban và hơn nữa cây chè là cây làm giàu, không phải cây xóa đói, giảm nghèo như xưa nữa.
Hiện tại, Suối Giàng có hơn 500 ha chè, trong đó hơn 300 ha là cây cổ thụ có tuổi đời từ 100-200-300-500, vùng chè đã được công nhận vùng chỉ dẫn địa lý. Các sản phẩm OCOP đang dần nhiều lên từ 3 sao, 4 sao và hướng đến 5 sao. Các cơ sở sản xuất gia tăng. Tiếng vang của chè Suối Giàng đã lan xa ở thị trường trong nước và đã đặt được bước chân vào thị trường quốc tế thì giấc mơ vùng chè Suối Giàng đạt thương hiệu quốc gia cho đặc sản vùng cao sớm đến nhanh. Giúp cho bà con trên đỉnh núi Suối Giàng có thu nhập cao hơn, sẽ thu hút được đông khách du lịch đến nghỉ dưỡng và từ đó bà con có việc làm ổn định, không phải đi làm ăn xa.

Các sản phẩm trà của Hợp tác xã Suối Giàng được nhiều khách hàng đón nhận. Ảnh: NVCC
Và chắc chắn, các sản phẩm trà Suối Giàng sẽ là những phẩm trà quý giá khi tăng giá trị trung bình ít nhất 30 - 50% so với mức trung bình hiện tại. Được công nhận rộng rãi ở cấp quốc gia để người tiêu dùng biết đến “Chè Shan Tuyết Suối Giàng” như một thương hiệu đặc sản. Tiến tới, trở thành một trong những thương hiệu trà Việt Nam có mặt đều đặn trong các sét quà ngoại giao, du lịch cao cấp và một số kênh xuất khẩu chọn lọc. Các sản phẩm được chế biến, đóng gói theo tiêu chuẩn hữu cơ/ ISO.
Xin cảm ơn chị!
Chè Shan Tuyết Suối Giàng hiện có hơn 500 ha diện tích trồng, trong đó trên 300 ha là chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Sản phẩm đã được cấp chỉ dẫn địa lý “Chè Shan Tuyết Suối Giàng”, áp dụng truy xuất nguồn gốc bằng mã QR tới từng gốc chè. Giá trị kinh tế không ngừng tăng, giúp hàng trăm hộ dân người Mông ổn định sinh kế và đưa thương hiệu Shan Tuyết từng bước mở rộng ra thị trường trong và ngoài nước.





