
Giải pháp tạo thuận lợi cho hợp tác thương mại, công nghiệp, năng lượng Việt - Lào
Chiều ngày 7/11, tại tỉnh Quảng Ninh, Bộ Công Thương hai nước Việt Nam - Lào phối hợp tổ chức Hội nghị Hợp tác phát triển thương mại biên giới Việt Nam - Lào lần thứ XIII. Đây là sự kiện được tổ chức luân phiên tại mỗi nước, 2 năm/lần.
Hội nghị được tổ chức nhằm mục tiêu rà soát các điều khoản, kịp thời lắng nghe, giải đáp những thắc mắc, khó khăn, tạo thuận lợi cho thương mại biên giới hai nước phát triển lên một tầm cao mới.
Tại hội nghị, sau phần phát biểu của Bộ trưởng Bộ Công Thương hai nước Việt Nam và Lào, đại diện các bộ, ngành hai bên đã phát biểu, tham luận ý kiến, đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho thương mại hai bên.

Toàn cảnh Hội nghị Hợp tác phát triển thương mại biên giới Việt Nam - Lào lần thứ XIII.
Linh hoạt tổ chức Hội nghị thương mại biên giới Việt Nam - Lào
Chia sẻ về quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại biên giới Việt Nam - Lào, bà King Sa-đon Phết-đao-hương - Vụ trưởng Vụ Ngoại thương (Bộ Công Thương Lào) cho biết, hai nước đang triển khai các nội dung hợp tác sát thực, hiệu quả và đúng định hướng mà lãnh đạo hai bên đã thống nhất. Tuy nhiên, phía Lào có thêm hai ý kiến:
Thứ nhất, trong thời gian qua, một số nội dung trong Biên bản ghi nhớ giữa hai bên vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện, chưa đạt kết quả như kỳ vọng ban đầu. Vì vậy, hai nước cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác phối hợp, rà soát và hoàn thiện quy trình triển khai, để có thể khai thác trọn vẹn lợi ích từ các nội dung hợp tác đã ký kết.

Vụ trưởng Vụ Ngoại thương (Bộ Công Thương Lào) đề xuất linh hoạt tổ chức Hội nghị Hợp tác phát triển thương mại biên giới Việt Nam - Lào.
“Đề nghị các đơn vị liên quan nghiên cứu chuẩn hóa các thủ tục, đặc biệt là sớm hoàn thiện khuôn mẫu thống nhất giữa hai bên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện, nâng cao hiệu quả và tính đồng bộ trong quá trình hợp tác”, Vụ trưởng Vụ Ngoại thương, Bộ Công Thương Lào đề xuất.
Thứ hai, về công tác tổ chức hội nghị hợp tác phát triển kinh tế thương mại biên giới giữa hai nước, hiện nay hai bên đang duy trì định kỳ hai năm một lần.
Chính vì vậy, Vụ Ngoại thương Lào đề xuất nghiên cứu cơ chế tổ chức linh hoạt hơn, có thể là hằng năm. Những cuộc gặp gỡ như vậy là dịp để trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển thương mại biên giới, tạo cơ hội để hai bên kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tăng cường sự hiểu biết và phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan chức năng.
Vụ trưởng Vụ Ngoại thương Lào tin tưởng, các diễn đàn chuyên đề hay hội thảo kỹ thuật như vậy sẽ mang lại giá trị thực chất, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Lào ngày càng bền chặt và hiệu quả hơn.
Tăng tốc thực hiện các hợp đồng mua bán điện Việt Nam - Lào
Tham luận về hợp tác và phát triển điện Lào - Việt Nam, ông Phết-sa-vẳn Lắt-tạ-nạ-thong Xay, Cục trưởng Cục Năng lượng (Bộ Công Thương Lào) chia sẻ, căn cứ theo Hiệp định hợp tác năng lượng mà hai bên đã ký kết từ năm 2016, đến nay hai nước đã có thêm những cam kết mới, trong đó đặt mục tiêu trao đổi và cung cấp điện giữa hai nước đạt khoảng 3.000 MW vào năm 2020 và hướng tới con số 8.000 MW trong các giai đoạn tiếp theo.
Thời gian vừa qua, phía Lào và Việt Nam đều đã tích cực thúc đẩy các hoạt động hợp tác, với sự tham gia của lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng điện, bao gồm thủy điện, điện mặt trời, điện than và điện gió. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, mặc dù mục tiêu đề ra đến năm 2020 là 3.000 MW, nhưng hai nước mới chỉ thực hiện được hơn 1.000 MW. Thực tế cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc cần tháo gỡ.

Cục trưởng Cục Năng lượng (Bộ Công Thương Lào) đề xuất thúc đẩy các hoạt động hợp tác phát triển năng lượng Việt Nam - Lào.
Theo đánh giá của phía Lào, để đạt được các mục tiêu đã thống nhất, hai bên cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu quan, đặc biệt trong các khâu quy hoạch, kết nối lưới điện, thủ tục pháp lý, cơ chế giá điện và hạ tầng truyền tải. Hiện nay, một số vấn đề còn chưa thật sự thống nhất, dẫn đến tiến độ triển khai còn chậm và mất nhiều thời gian.
Cùng chia sẻ về hợp tác điện giữa hai nước, ông Phạm Nguyên Hùng - Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương cho biết: Thứ nhất, về chính sách mua bán điện của Việt Nam.
Hiện chủ trương mua bán điện nước ngoài đã được quy định tại Điều 46, Luật Điện lực số 61/2024/QH15. Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2025/TT-BCT ngày 1/2/2025 về quy định hồ sơ, trình tự và thủ tục mua bán điện với nước ngoài. Trong đó, đã quy định về hồ sơ đề nghị phê duyệt chủ trương mua, bán điện với nước ngoài và trình tự thẩm định và phê duyệt chủ trương mua bán điện với nước ngoài.

Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương Việt Nam Phạm Nguyên Hùng nêu giải pháp thúc đẩy hợp tác hơn nữa về lĩnh vực năng lượng.
Ngoài các văn bản pháp luật quy định về việc mua bán điện nước ngoài, việc hợp tác trong lĩnh vực điện cũng đã được sự quan tâm của Chính phủ 2 nước thông qua Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào về mua bán than và điện ký kết ngày 9/1/2025; Biên bản ghi nhớ (MOU) giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào đã được ký kết ngày 5/10/2016; Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII điều chỉnh) và Quyết định số 1415/QĐ-TTg ngày 30/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Về định hướng hợp tác trong thời gian tới, Cục trưởng Phạm Nguyên Hùng cho biết, theo Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025, đến năm 2030, nhập khẩu khoảng 9.360 - 12.100 MW từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ và tận dụng khả năng nhập khẩu phù hợp với điều kiện đấu nối từ Trung Quốc với quy mô hợp lý; định hướng năm 2050, nhập khẩu khoảng 14.688 MW.
Nếu điều kiện thuận lợi, giá thành hợp lý, có thể tăng thêm quy mô tối đa hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc.
Với cơ cấu và định hướng phát triển nguồn điện của Việt Nam nêu trên, trong thời gian tới Việt Nam tiếp tục tăng cường nhập khẩu điện từ nước ngoài, đặc biệt là từ Lào. Trong đó, ưu tiên nhập khẩu về khu vực phía bắc của Việt Nam để thuận lợi cho việc cung cấp điện khu vực miền Bắc.
Tuy nhiên, các dự án đề xuất bán điện cho Việt Nam thời gian qua đều thực hiện theo hình thức nghiên cứu riêng lẻ, đấu nối tự phát, không mang tính quy hoạch tổng thể hệ thống điện 2 nước, thậm chí một số dự án nguồn điện mới ở giai đoạn xác định tiềm năng đã có văn bản đề xuất bán điện cho Việt Nam.
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin dự án phục vụ tính toán nhu cầu hệ thống, quy hoạch đấu nối cũng như khả năng giải tỏa công suất tại các điểm đấu nối. Do đó, hai bên cần phối hợp để nghiên cứu tổng thể kết nối lưới điện giữa hai nước; xem xét đối với đề xuất về mở rộng đầu tư tuyến đường dây 500 kV trên địa phận nước Lào kết hợp giải pháp liên kết lưới điện xoay chiều - một chiều/ back-to-back để liên kết với hệ thống điện Việt Nam phục vụ đấu nối nhập khẩu điện từ Lào về Việt Nam.
Để thúc đẩy hợp tác mua bán điện với Lào, Cục trưởng Phạm Nguyên Hùng kiến nghị, Chính phủ, Bộ Công Thương Lào quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các hợp đồng, thỏa thuận đã ký kết với phía Lào; tạo điều kiện đẩy nhanh các thủ tục đầu tư liên quan đối với các doanh nghiệp đầu tư và bán điện về Việt Nam.
Bộ Công Thương Lào, Tổng công ty Điện lực Lào và các chủ đầu tư cần thường xuyên trao đổi, phối hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nghiên cứu tính toán nhu cầu, các giải pháp kỹ thuật và thương mại trong liên kết lưới điện giữa hai nước.
Gỡ khó cho doanh nghiệp, thúc đẩy hợp tác công nghiệp
Tham luận về hợp tác công nghiệp giữa hai nước, ông Quách Quang Đông - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cho biết, hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam (như TKV, Vinachem, Việt Phương...) có hợp tác đầu tư các dự án tại Lào trong lĩnh vực khai khoáng và chế biến khoáng sản liên quan đến các loại khoáng sản như bô-xít, sắt, crom, antimon, muối mỏ kali...

Phó Cục trưởng Quách Quang Đông kiến nghị cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý nhà nước giữa các cơ quan hữu quan chặt chẽ và hiệu quả hơn nữa để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận đầu tư, nhiều doanh nghiệp Việt Nam triển khai công tác chuẩn bị đầu tư và tiến hành đầu tư tại Lào còn gặp nhiều khó khăn do các chính sách, thủ tục và trình tự đầu tư của Lào.
Do đó để thúc đẩy việc hợp tác có hiệu quả, Phó Cục trưởng Quách Quang Đông kiến nghị cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý nhà nước giữa các cơ quan hữu quan chặn chẽ và hiệu quả hơn nữa để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
Kiến nghị Chính phủ Lào xem xét đưa các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào diện được khuyến khích đầu tư, giảm tối đa các khoản thuế và giảm thiểu các thủ tục thông quan đối với vật liệu, máy móc, thiết bị để phục vụ cho các dự án, giải tỏa những quy định về hạn chế sử dụng lao động Việt Nam tại Lào, có biện pháp tháo gỡ những khó khăn với chính quyền Trung ương và các địa phương nơi thực hiện dự án cũng như tạo điều kiện thông thoáng hơn nữa về thủ tục cấp các loại giấy phép liên quan đến các dự án của doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư và triển khai ở Lào.
Đồng thời, hai nước cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các tuyến đường xuyên biên giới có các cửa khẩu qua các tỉnh trong vùng để các dự án khai thác khoáng sản triển khai được thuận lợi.
Ông Quách Quang Đông - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương nhấn mạnh, Việt Nam và Lào thường xuyên có các cuộc làm việc trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau và chủ động có biện pháp ứng phó kịp thời, phù hợp, bảo đảm lợi ích, an ninh quốc gia và cân bằng quan hệ đối ngoại với các nước.
Với các chính sách, giải pháp đồng bộ của Chính phủ hai nước, giai đoạn tới, ngành công nghiệp khai khoáng của Việt Nam - Lào sẽ có nhiều khởi sắc, thay đổi về chất, phát triển đồng bộ, bền vững, chú trọng hợp tác quốc tế, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số, công nghệ trí tuệ nhân tạo, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Sử dụng khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.