Đổi mới sáng tạo từ Nghị quyết 57: Quyết tâm lớn để hoá giải thách thức

Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, song chặng đường từ quyết tâm chính trị đến hành động thực tế còn nhiều gian nan.

Trong khuôn khổ hội nghị khoa học “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam”, tại hội thảo chuyên đề “Triển khai thực hiện Nghị quyết 57 nhằm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam” diễn ra tại Hải Phòng từ ngày 21-22/8, ông Nguyễn Huy Dũng - Ủy viên Chuyên trách, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số đã chia sẻ quan điểm, thách thức và những vấn đề đặt ra trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Sáu thách thức trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Ông Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, thách thức đầu tiên mà chúng ta đang đối diện chính là thách thức về nhận thức. Sau khi Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được ban hành, toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị đã có bước chuyển biến rõ rệt về tư duy và hành động đối với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, nhận thức vẫn cần tiếp tục được đổi mới, bổ sung những nhiệm vụ, những nội dung mới, phù hợp với bối cảnh toàn cầu và những xu hướng công nghệ mới nổi.

Ông Nguyễn Huy Dũng Ủy viên chuyên trách, Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Ông Nguyễn Huy Dũng Ủy viên chuyên trách, Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Thách thức thứ hai nằm ở thể chế. Thể chế được xác định là “điểm nghẽn” của sự phát triển. Dù thời gian qua các cấp, các ngành đã có nhiều nỗ lực đột phá, song sự vận hành vẫn còn bất cập, thiếu tính đồng bộ, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn.

Thách thức tiếp theo là nguồn nhân lực. Trong suốt 20–30 năm qua, chúng ta vẫn tập trung vào cả số lượng lẫn chất lượng nhân lực. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của những công nghệ mới chỉ trong vòng 5–10 năm trở lại đây, cơ hội mở ra cho Việt Nam tham gia ngay từ đầu, rút ngắn khoảng cách và đồng hành cùng xu thế toàn cầu. Nhưng để làm được điều này, yêu cầu về nhân lực công nghệ chất lượng cao trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Về hạ tầng, Việt Nam đang cùng lúc đối diện với cả hạ tầng truyền thống lẫn hạ tầng mới, đặc biệt là hạ tầng số. Sự thiếu hụt và chậm trễ trong hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng bộ sẽ là rào cản trực tiếp cho tiến trình phát triển.

Một thách thức quan trọng khác là công nghệ chiến lược. Thực tế cho thấy, chúng ta chưa có bước đột phá trong việc làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ nền tảng, điều này khiến Việt Nam dễ bị phụ thuộc và tụt hậu trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt.

Và cuối cùng, an ninh mạng là yếu tố then chốt, mang tính quyết định. Bởi lẽ, mọi tiến trình phát triển đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chỉ có thể nhanh và bền vững nếu được bảo đảm bởi nền tảng an toàn, an ninh mạng vững chắc.

Ông Dũng khẳng định: Nếu không giải quyết căn bản sáu nhóm thách thức nêu trên, từ nhận thức, thể chế, nhân lực, hạ tầng, công nghệ chiến lược cho đến an ninh mạng, thì Việt Nam sẽ rất khó đạt được sự phát triển mang tính đột phá và bền vững trong kỷ nguyên mới.

Sáu nhóm quan điểm chỉ đạo gắn với sáu thách thức

Ông Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh: Tương ứng với sáu nhóm thách thức đã được nhận diện, Đảng ta cũng đã xác định rõ sáu nhóm quan điểm chỉ đạo mang tính cốt lõi, định hướng cho sự phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong giai đoạn mới.

Thứ nhất, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá hàng đầu

Đảng xác định đây là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất và đổi mới phương thức quản trị quốc gia.

Về lực lượng sản xuất hiện đại, khi con người được tăng cường bởi AI, chúng ta sẽ hình thành nên lực lượng sản xuất mới, mang tính quyết định cho sự phát triển. Vì vậy, đưa AI vào từng ngõ ngách của đời sống, vào công việc của mỗi người dân, người lao động, là nhiệm vụ then chốt.

AI được coi là một lực lượng sản xuất hiện đại trong tiến trình thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Ảnh: Thu Hường

AI được coi là một lực lượng sản xuất hiện đại trong tiến trình thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Ảnh: Thu Hường

Về quan hệ sản xuất mới, có hai yếu tố nổi bật. Theo đó, dữ liệu trở thành tư liệu sản xuất, một loại tài sản đặc biệt của tổ chức; và môi trường số trở thành không gian sản xuất, lưu thông, phân phối giá trị mới. Dữ liệu số và môi trường số đã, đang và sẽ thay đổi căn bản quan hệ sản xuất cũng như phương thức quản trị quốc gia.

Thứ hai, đây là cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc. ông Dũng phân tích, tính toàn diện thể hiện ở việc khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tác động đến mọi người, mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề.

Tính sâu sắc nhấn mạnh yêu cầu đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thực chất, rõ nét chứ không dừng ở khẩu hiệu. Đây là một quá trình lâu dài, nhưng đòi hỏi phải có giải pháp đột phá trước mắt, tạo ra kết quả cụ thể, qua đó gây dựng niềm tin xã hội, khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo rộng khắp.

Thứ ba, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng: Mọi thành tựu mang tính đột phá trong lịch sử dân tộc đều gắn liền với sự hội tụ ý chí và sức mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự đồng lòng của nhân dân. Do đó, công cuộc đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng phải được triển khai dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng để tạo nên sức mạnh hội tụ, bảo đảm cho thành công.

Thứ tư, nhấn mạnh vai trò của thể chế: Thể chế tiếp tục được xác định là yếu tố đột phá. Một hệ thống thể chế đồng bộ, minh bạch và tiên tiến chính là điều kiện tiên quyết để tháo gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia mạnh mẽ vào tiến trình chuyển đổi số.

Thứ năm, đặt ra mục tiêu cao và đầy tham vọng: Đảng ta kiên định với mục tiêu làm chủ các công nghệ chiến lược, đặc biệt là những công nghệ lõi, công nghệ nền tảng. Đây vừa là thách thức, vừa là khát vọng, đồng thời là động lực để đất nước bứt phá, không tụt hậu trong dòng chảy cách mạng công nghiệp toàn cầu.

Thứ sáu, bảo đảm nguồn lực là điều kiện tiên quyết: Nguồn lực trước hết là tài chính. Việc huy động, phân bổ và tháo gỡ những rào cản để dòng vốn chảy mạnh mẽ vào khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là chìa khóa để biến chủ trương thành hiện thực. Nếu không có nguồn lực đủ mạnh, chúng ta khó có thể vượt qua thách thức và hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra.

Những vấn đề đặt ra trong lãnh đạo, tổ chức và triển khai

Ông Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, bên cạnh việc xác định thách thức và quan điểm chỉ đạo, công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm.

Trước hết, về công tác cán bộ. Đảng đã có chỉ đạo rất rõ ràng: cần bố trí số lượng cán bộ có trình độ khoa học, kỹ thuật tham gia vào cơ cấu cấp ủy các cấp. Đây là yêu cầu quan trọng nhằm đưa trí tuệ khoa học vào trong lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy nhiên, thực tế triển khai ở nhiều địa phương, trong đó có tỉnh Thái Nguyên, cho thấy việc tìm đủ nguồn cán bộ chuyên môn kỹ thuật để tham gia cấp ủy là hết sức khó khăn.

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mới giúp doanh nghiệp vươn ra thế giới

Ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mới giúp doanh nghiệp vươn ra thế giới

Ông Nguyễn Huy Dũng lấy dẫn chứng khi ông còn giữ cương vị Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên, nguồn cán bộ khoa học, kỹ thuật chỉ dừng lại ở một, hai đồng chí, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu cơ cấu. Điều này phản ánh thách thức lớn về nhân lực khoa học công nghệ trong hệ thống chính trị, đòi hỏi phải có giải pháp căn cơ.

Mở rộng ra ở lĩnh vực doanh nghiệp, ông nhấn mạnh: trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải trở thành doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong lĩnh vực của mình. Từ vận tải, logistics, thương mại cho đến các ngành sản xuất truyền thống, chỉ khi ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo thì mới giữ được thị phần trong nước và vươn ra quốc tế. Nếu không, nguy cơ mất thị phần là điều tất yếu.

Tiếp theo, về nhận thức xã hội và kỹ năng số. Theo ông, điểm mới thứ hai là nâng cao nhận thức xã hội thông qua chương trình “bình dân học vụ số”, đây là một nỗ lực phổ cập kỹ năng số cho toàn dân.

Ông Nguyễn Huy Dũng chia sẻ: tại Thái Nguyên, chương trình được triển khai theo cách tiếp cận “bình dân học AI”, thay vì chỉ dừng lại ở các kỹ năng số cơ bản. Trong vòng ba tháng, địa phương đã phổ cập kiến thức AI cho 400.000 người lao động, không theo phương thức tập huấn truyền thống mà hoàn toàn trên nền tảng số.

Người học tham gia khảo sát, học tập, đánh giá và nhận chứng chỉ tự động, phân chia thành 7 cấp độ. Chỉ một số ít đạt cấp cao nhất, còn phần lớn ở cấp độ thấp hơn, qua đó tạo ra động lực học tập liên tục, thay đổi cách tiếp cận nhận thức theo hướng bền bỉ và thực chất, khác với mô hình tập huấn ngắn hạn trước đây.

Về thể chế và hạ tầng, ông nhấn mạnh: “Luật Khoa học – Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (sửa đổi, bổ sung năm 2025) là nền tảng pháp lý căn bản trong thúc đẩy khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế  -xã hội..

Về hạ tầng, đây là yếu tố quyết định. Ông chỉ rõ, phát triển hạ tầng không chỉ là hạ tầng số, mà trước hết phải bảo đảm hạ tầng năng lượng, nếu không có điện, thì không thể nói tới AI hay chuyển đổi số. Tiếp đó là hạ tầng giao thông, hạ tầng viễn thông, hạ tầng vật lý số (hạ tầng để số hóa thế giới), hạ tầng dữ liệu và tính toán AI giá rẻ, cùng hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu.

Hiện Việt Nam vẫn thiếu các trung tâm tính toán AI, vì vậy nhiều địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM đang cùng phối hợp thúc đẩy xây dựng các trung tâm dữ liệu AI, nhằm cung cấp năng lực tính toán rẻ và mạnh cho cộng đồng doanh nghiệp. Đây sẽ là điều kiện then chốt để nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Liên quan đến nhân lực, theo ông Nguyễn Huy Dũng, nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi. Ngay trước mắt, cần thu hút chuyên gia giỏi từ bên ngoài; về trung hạn và dài hạn, phải phát triển đội ngũ nhân lực trong nước, đặc biệt là nhân lực STEM. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ sinh viên Việt Nam theo học các ngành STEM lại ở mức thấp nhất trong số các quốc gia có tham vọng phát triển công nghệ. Nếu không thay đổi xu hướng này, chắc chắn đất nước sẽ gặp khó khăn trong trung và dài hạn.

Cần khơi dậy niềm đam mê khoa học trong thế hệ trẻ. Làm cho học sinh, sinh viên yêu thích khoa học, công nghệ, coi đây là lựa chọn nghề nghiệp hấp dẫn. Kể cả với các ngành khác như y, dược, nông nghiệp, tài chính, thì người học cũng cần coi khoa học công nghệ là công cụ không thể thiếu để tạo lợi thế cạnh tranh”- ông Nguyễn Huy Dũng đề nghị.

Ông chia sẻ, tại Đại học Thái Nguyên đã thí điểm đưa công nghệ vào mọi ngành đào tạo: từ nông nghiệp gắn với chế biến chè, cho đến các lĩnh vực đặc thù khác – qua đó giúp sinh viên hiểu rằng không có ngành nào đứng ngoài khoa học công nghệ.

Bên cạnh đó, ông cũng cho rằng, để triển khai các công nghệ chiến lược thì cần có giải pháp làm chủ trong tương lai gần. Cùng với đó, an toàn, an ninh mạng, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững.

Đặc biệt, vai trò của Nhà nước, từ chỗ tập trung vào Chính phủ số, nay mở rộng hơn để dẫn dắt, kiến tạo và đồng hành cùng toàn xã hội.

Theo ông Nguyễn Huy Dũng, đến tháng 5/2025, hệ thống thống kê ghi nhận 868 nhiệm vụ, trong đó 294 nhiệm vụ đã hoàn thành, 472 nhiệm vụ đang triển khai, và 102 nhiệm vụ chưa đạt tiến độ. Sau 8 tháng, có thể ghi nhận 5 kết quả nổi bật: hệ thống văn bản dưới Nghị quyết 57 đã hình thành với khoảng 700 văn bản qua đó góp phần xây dựng nền tảng pháp lý mới, đổi mới phương thức quản trị; kết nối và làm sạch dữ liệu quốc gia; cải cách thủ tục hành chính; các định rõ công nghệ chiến lược.

Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận