Tại Điều 6.2.c, Dự thảo nêu trên quy định điều kiện để doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ là phải có vốn pháp định 50 tỷ đồng. Để chứng minh doanh nghiệp có vốn 50 tỷ đồng, Điều 7.2.c quy định doanh nghiệp phải nộp kèm văn bản xác nhận vốn pháp định.
Phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng. Ảnh minh họa |
VCCI cho rằng, quy định này, thứ nhất sẽ loại bỏ những doanh nghiệp nhỏ và vừa được quyền kinh doanh trong lĩnh vực này, trong khi chủ trương của Nhà nước là khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thứ hai, điều kiện kinh doanh yêu cầu vốn như vậy chỉ nên áp dụng cho những ngành nghề cần tính thanh khoản về tài chính như ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán. Thứ ba, nguy cơ tác động đến lợi ích công cộng của hoạt động phá dỡ tàu biển là nằm ở các tác động về môi trường, không có mối liên hệ rõ ràng giữa việc cứ doanh nghiệp có vốn lớn thì sẽ bảo vệ môi trường tốt hơn. Thứ tư, việc yêu cầu vốn chỉ thông qua một văn bản xác nhận của ngân hàng là rất dễ vượt qua, doanh nghiệp chỉ cần vay tiền đưa vào một tài khoản, lấy xác nhận của ngân hàng là xong, sau đó họ rút tiền ra trả lại cho người cho vay, qui định này không chặt chẽ và không cần thiết. VCCI cho rằng, cơ quan soạn thảo cần đánh gia lại tính cần thiết về điều kiện vốn pháp định khi cấp phép nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ.
Dự thảo qui định 2 thủ tục hành chính nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ gồm: Có quyết định đưa cơ sở phá dỡ tàu biển vào hoạt động; giấy phép nhập khẩu tàu biển để phá dỡ. Hai thủ tục này đều cấp cho một chủ thể và đều do Cục Hàng hải cấp, VCCI kiến nghị, cần áp dụng cơ chế liên thông hai thủ tục này theo Nghị định 61/2018/NĐ-CP về cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Điều 6.2 của Dự thảo nêu trên còn quy định “giấy phép nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ có thời hạn 5 năm”, theo VCCI là không hợp lý và cũng không cần thiết. Thứ nhất, sẽ làm tăng rủi ro kinh doanh cho doanh nghiệp, giảm động lực để các doanh nghiệp đầu tư bài bản xây dựng nơi sản xuất kiên cố, mua sắm máy móc hiện đại, đào tạo hoặc cho nhân sự đi đào tạo... Thời hạn giấy phép 5 năm sẽ khiến cho doanh nghiệp chỉ tập trung mua sắm những loại máy móc cũ, máy móc giá trị thấp có thời gian khấu hao sử dụng từ 5 năm trở xuống mà không dám mạo hiểm mua sắm máy móc, công nghệ hiện đại hơn.
Thứ hai, việc quy định thời hạn giấy phép là không cần thiết. Trong trường hợp cơ quan nhà nước lo ngại tình trạng doanh nghiệp vi phạm quy định về nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ thì đã có các quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý, thu hồi giấy phép. Với những lý do đó, VCCI cho rằng, cơ quan soạn thảo cần bỏ quy định về thời hạn giấy phép nhập khẩu tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ.
Ngoài ra, tại Điều 11 của Dự thảo quy định trình tự thực hiện mua tàu biển nước ngoài đã qua sử dụng gồm: Phê duyệt chủ trương; lập, phê duyệt dự án; lựa chọn tàu và các điều kiện liên quan; ra quyết định mua tàu. Trong khi đó, tại Điều 12 lại quy định doanh nghiệp ngoài quốc doanh tự quyết định việc phê duyệt chủ trương, quyết định mua tàu biển mà không cần xin ý kiến của cơ quan nhà nước. Như vậy, có thể hiểu rằng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh được quyền tự quyết nhưng vẫn phải tuân thủ 4 bước tại Điều 11. Thủ tục như vậy là không cần thiết, thậm chí can thiệp quá mức và quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. VCCI cho rằng, cần sửa đổi Điều 11 và Điều 12 theo hướng các quy định về trình tự, thẩm quyền thực hiện việc mua tàu nước ngoài đã qua sử dụng để phá dỡ tại Nghị định này chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp sử dụng vốn nhà nước.