Điểm nổi bật trong NQ Đại hội lần thứ XI của Đảng về tiếp tục xây dựng, phát triển dân chủ XHCN
Từ khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới, tiến trình dân chủ hóa diễn ra liên tục. Mỗi kỳ Đại hội Đảng – năm năm một lần – đánh dấu sự kết thúc một thời đoạn của tiến trình đó đồng thời đánh dấu sự bắt đầu một thời đoạn tiếp theo có thêm những nội dung mới hoặc những điểm nhấn mới.
Nếu Đại hội Đảng lần thứ X khi đề cập đến vấn đề dân chủ hóa đã nhấn mạnh sự song hành như nhau giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp: “Thực hiện đồng bộ các chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội”1* thì Đại hội lần thứ XI, trong báo cáo chính trị, nêu: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” và đã nhấn mạnh: “Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện thực tế quyền làm chủ trực tiếp”2 (Tôi gạch dưới – TQT); tiếp đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, một lần nữa Đại hội khẳng định: “Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”3.
Vậy là, điểm nhấn mới của tiến trình dân chủ hóa ở nước ta trong nhiệm kỳ thứ XI của Đảng là xúc tiến mạnh mẽ việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Sự xác định điểm nhấn đó ở thời đoạn hiện nay phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và có căn cứ lý luận của nó.
Nhu cầu thực tiễn, đó là:
- Thứ nhất, cho đến nay sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về chiều rộng và chiều sâu ở mức độ đạt được, đã tạo nên dấu ấn đậm nét đổi mới nền tảng kinh tế - xã hội của nước ta, làm nẩy sinh những xung lực mới từ lực lượng sản xuất được giải phóng và từ quan hệ sản xuất được tháo gỡ khỏi những rào cản bắt nguồn từ những định kiến chủ quan, duy ý chí của thời kỳ ấu trĩ. Thành tựu kinh tế đạt được từ khi thực hiện đổi mới là to lớn, trong đó nằm ở đằng sau (hay ở bên trên) những thành tựu có thể biểu thị bằng những con số thống kế cụ thể là một thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử: bước đầu xác lập địa vị chủ thể trực tiếp của người lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Sự biến đổi sâu sắc đó trong nền tảng kinh tế - xã hội tạo tiền đề kinh tế, điều kiện vật chất đồng thời đặt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đứng trước áp lực cực kỳ to lớn, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để nền tảng kinh tế tiếp tục củng cố và quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được thực thi ở mức độ đầy đủ hơn.
- Thứ hai, công cuộc dân chủ hóa ở nước ta được phát động từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, đặc biệt là cuộc vận động lớn nhằm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sau đó được nâng cấp thành Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đã có tác dụng làm cho sự hiểu biết về dân chủ và ý thức thực hiện dân chủ của đông đảo nhân dân – so với trước đây – được nâng lên rõ rệt; năng lực thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân có bước trưởng thành mới biểu hiện trong tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở, đóng góp ý kiến xây dựng Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Hiến pháp, bầu cử Quốc hội, tham gia giám sát, quản lý, đấu tranh chống tham nhũng với những hình thức sinh động và có hiệu quả hơn; nhu cầu dân chủ của nhân dân ta ngày càng cao, phong phú, đa dạng hơn, và dân chủ ngày càng thấm sâu vào các quan hệ xã hội; bản lĩnh của nhân dân ta giữ gìn, bảo vệ các thành quả dân chủ đã giành được cũng biểu hiện rõ rệt hơn trước.
Đông đảo nhân dân tỏ ra đồng tình, công nhận, đánh giá tích cực những thành tựu mà công cuộc dân chủ hóa đã đạt được; nhưng chính trên mặt bằng của những thành tựu đó họ thể hiện tâm trạng bức xúc, đòi hỏi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện sự đổi mới có ý nghĩa bước ngoặt để quyền làm chủ trực tiếp của họ được thực hiện. Trong thời gian vừa qua, những ý kiến đóng góp của đông đảo nhân dân cho Đại hội XI của Đảng được phản ánh trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác đã thể hiện tâm trạng đó, hơn nữa – về khách quan – những ý kiến đóng góp đó thể hiện sự chín muồi về trình độ và khả năng của nhân dân để bước vào giai đoạn thực thi quyền dân chủ trực tiếp.
- Thứ ba, nhìn từ một góc độ khác, ở nước ta hiện nay việc phát huy hơn nữa những ưu điểm và nhất là việc khắc phục có hiệu quả những hạn chế, khuyết điểm mà cơ chế vận hành của nền dân chủ ở nước ta (Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ) - đã bộc lộ và gây nên sự bức xúc trong dư luận xã hội – đòi hỏi phải hiện thực hóa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân. Bởi vì nhân dân là người trực tiếp xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng thực sự là “đội tiền phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”4, đảm bảo cho Đảng tránh được nguy cơ chuyên quyền, độc đoán theo kiểu đảng trị ... đã đưa một số Đảng cộng sản trên thế giới đến sự tan rã.
Qua trải nghiệm thực tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta, càng ngày càng trở nên phổ biến quan niệm cho rằng muốn Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tránh được nguy cơ thoái hóa bởi sự “gậm nhấm” của chủ nghĩa quan liêu và nạn tham nhũng, không có cách nào khác là đặt nhà nước đó dưới sự giám sát trực tiếp và sự bảo vệ của nhân dân – chủ thể đích thực của quyền lực xã hội.
Khác hẳn với một số người đặt tương lai của nền dân chủ phụ thuộc vào chế độ đa đảng, đại đa số nhân dân ta đặt tương lai của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vào quá trình hiện thực hóa quyền làm chủ toàn diện và trực tiếp của nhân dân.
Như vậy, hiện thực hóa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân là đòi hỏi bức thiết của thực tiễn nước ta, là giải pháp đột phá hiện nay để làm trong sạch, vững mạnh và năng động hóa toàn bộ cơ chế dân chủ ở nước ta.
Căn cứ lý luận đó là: Lý luận về dân chủ và những bài học rút ra từ tổng kết thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của C.Mác và VI.Lênin.
Từ năm 1871 trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari – cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, đỉnh cao nhất của phong trào công nhân thế kỷ XIX C.Mác đã viết: “Công xã đã cung cấp cho nền cộng hòa cái cơ sở của những thiết chế dân chủ”5 , trong đó “xu hướng phát triển của sự cai quản nhân dân do chính nhân dân đảm nhiệm”6.
Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917, VI.Lênin dành sự quan tâm hàng đầu cho việc “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí điểm những hình thức ấy trong thực tiễn”7.
Cuộc “thí điểm ấy” đã trải qua ba thời đoạn với sự kiểm nghiệm ba hình thức dân chủ để sau đó tìm ra hình thức dân chủ thích hợp nhất với nước Nga lúc đó.
a. Những năm đầu chính quyền Xô Viết, V.I Lênin đặc biệt chú ý đến ý kiến của C.Mác trong đó nhấn mạnh hình thức dân chủ trực tiếp, xem đó là hình thức quá độ để tiến lên giai đoạn toàn thể nhân dân thực hành chức năng lập pháp và hành pháp. Thực tế là, những năm đó Đảng Bôn sê vích là linh hồn của chính quyền Xô Viết, có vai trò lãnh đạo chính trị, nhưng mọi công việc đều theo nguyên tắc nhân dân tự quản, không chấp nhận việc Đảng trực tiếp ra mệnh lệnh, vượt qua Xô Viết.
Nhưng thực tế đã cho thấy, hình thức dân chủ trực tiếp khó áp dụng ở nước Nga lúc đó, bởi vì trình độ kinh tế, văn hóa còn rất lạc hậu, trình độ dân trí chung của nhân dân còn thấp kém, đất nước kiệt quệ vì nội chiến và bị chia cắt bởi nhiều thế lực.
b.Tình hình trên làm cho V.I Lênin phải quyết định chuyển từ hình thức dân chủ trực tiếp sang hình thức dân chủ gián tiếp.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 3/1919) lần đầu tiên V.I Lênin nêu rõ sự cần thiết phải thay thế chế độ nhân dân quản lý bằng chế độ đại biểu Đảng, tức là Đảng thay mặt nhân dân quản lý. Chuyển trung tâm quyền lực từ Xô Viết sang Đảng. Nếu Hiến pháp Xô Viết đầu tiên (7/1918) quy định Đại hội đại biểu Xô viết toàn Nga là cơ quan lập pháp cao nhất thì đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng lại phải nêu nhiệm vụ “Giành được vai trò lãnh đạo tuyệt đối về chính trị trong Xô Viết và tiến hành việc giám sát thực tế đối với toàn bộ công tác của Xô viết”8.
Trong tình hình nội chiến đặc biệt khó khăn, hình thức dân chủ Xô Viết đã thay đổi nhiều so với trước đó. Nó trở thành một thể chế chính trị tập trung quyền lực cao độ. Thể chế này lúc đó đã có tác dụng tích cực nhất định, có lợi cho sự tập trung lực lượng cả nước, thống nhất kỷ luật, thống nhất hành động để đập tan sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc và hoạt động phiến loạn của bọn phản động trong nước. Nhưng đồng thời thể chế chính trị tập trung cao độ đó đã hạn chế rất nhiều quyền dân chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho chủ nghĩa quan liêu, hiện tượng cực quyền phát triển trở thành nguy cơ và hiểm họa lớn đối với Đảng và đất nước.
c. Năm 1921, cuộc nội chiến về cơ bản kết thúc. Nước Nga bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hòa bình, chính sách cộng sản thời chiến được thay thế bằng chính sách kinh tế mới. Trong tình hình đó, V.I Lênin đã lãnh đạo Đảng Bôn sê vích thực hiện một loạt điều chỉnh và cải cách thể chế chính trị Xô Viết theo hướng dân chủ hóa.
Nhưng từ tháng 12 /1922 V.I Lênin bị bệnh nặng, liệt tay phải và chân trái. Nhận thấy mình không thể sống lâu nữa, với một tinh thần trách nhiệm rất cao và một nghị lực phi thường Người đã tập trung suy nghĩ về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, trong đó dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Người đọc cho thư ký chép năm tác phẩm – Những trang nhật ký, Bàn về chế độ hợp tác, Về cuộc cách mạng của chúng ta, Chúng ta phải cải tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông như thế nào, Thà ít mà tốt, cùng nhiều lá thư quan trọng khác, trong đó đề cập đến những vấn đề chính yếu sau đây:
Một là, cải tiến chế độ sinh hoạt của Đảng theo hướng dân chủ hóa, coi đó là tiền đề và then chốt của việc xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa .
Hai là, kết hợp Ban kiểm tra của Đảng với Bộ dân ủy thanh tra công nông, tăng cường mạnh mẽ quyền giám sát của nhân dân.
Ba là, cải tạo căn bản toàn bộ bộ máy nhà nước nhằm chống chủ nghĩa quan liêu.
Bốn là, ra sức phát triển giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa của toàn dân, tiến hành cách mạng văn hóa, bởi vì: “tình trạng lạc hậu về văn hóa làm ô nhục chính quyền Xô Viết ... và khôi phục chế độ quan liêu”9 và “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”10.
Có thể nói một cách khái quát: những việc làm và những suy nghĩ cuối cùng của V.I Lênin về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tập trung vào hai phương diện gắn bó mật thiết với nhau.
- Phương diện thứ nhất – cải cách về tổ chức, cơ chế hoạt động nhằm dân chủ hóa sinh hoạt của Đảng, cải cách nhà nước theo hướng tinh giản, đạt hiệu quả cao; thực hiện sự phân công rành mạch và hợp lý giữa Đảng và Nhà nước. Đó chính là những nhân tố thiết yếu để tăng cường hiệu quả của hình thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp).
- Phương diện thứ hai – tăng cường sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước trên cơ sở phát triển giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa, dân trí của toàn dân. Đó là nhân tố thiết yếu nhằm tăng hiệu quả của hình thức dân chủ trực tiếp.
Ý nghĩa đột phá trong tư tưởng của V.I Lênin về xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết hợp dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Nhiều nhà lý luận Trung Quốc cho rằng: “Quan hệ giữa dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp là pham trù cơ bản trong học thuyết dân chủ”11.
Tư tưởng kết hợp dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp mở ra “lộ trình” phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: từ chỗ nhân dân tham gia giám sát dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước tiến dần tới chỗ nhân dân trực tiếp nắm toàn bộ công việc quản lý. Trong tương lai (tuy còn xa) Đảng không còn, nhà nước tiêu vong, xã hội sẽ bước vào giai đoạn văn minh tự quản, có nghĩa là nhân dân tự mình trực tiếp quản lý toàn bộ công việc xã hội.
Ở nước ta hiện nay và trong những bước tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn được hiện thực hóa bằng cách kết hợp hai hình thức là dân chủ đại diện (còn gọi là dân chủ gián tiếp) và dân chủ trực tiếp. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa đã có lý khi cho rằng chính sự kết hợp hai hình thức dân chủ đã tạo ưu thế cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với ưu thế ấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có thể kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân chủ trực tiếp trong lịch sử loài người, khởi đầu từ chế độ dân chủ cổ đại Aten; vừa có thể tiếp thu những giá trị của dân chủ gián tiếp thời cận, hiện đại ở các nước tư bản ...
Ở nước ta hiện nay nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp sao cho đạt tới sự thống nhất để phát huy tác động cùng chiều, góp phần quyết định sự phát triển của xã hội ta theo hướng “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”12. Tuy thế, mối quan hệ đó không ở trạng thái tĩnh tại, đứng yên mà rất năng động, phát triển. Qua những bước tiệm tiến, khi đạt tới sự chín muồi về trình độ nhận thức và thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân thì những chức năng dân chủ gián tiếp sẽ dần dần được chuyển giao cho dân chủ trực tiếp. Khách quan, sự nhấn mạnh “quyền dân chủ trực tiếp’ mà Đại hội XI nêu ra, có ý nghĩa xúc tiến thêm một bước sự chuyển giao ấy.
Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đó đòi hỏi huy động sự nỗ lực của toàn bộ cơ chế dân chủ - Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trước hết, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục hoàn tất thêm một bước việc đổi mới tư duy về dân chủ trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; tham khảo nghiêm túc những bài học bổ ích và thiết thực rút ra từ những thành công và thất bại của công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở các nước XHCN (trước kia và hiện nay), kế thừa cho được tinh hoa truyền thống dân chủ của Tổ tiên trong trường kỳ dựng nước và giữ nước; tiếp thu có gạn lọc những tư tưởng, lý thuyết, tổ chức thực hành dân chủ của nước ngoài, nhất là các nước tiên tiến. Từ đó xây dựng lý thuyết và mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dự kiến “lộ trình” phát triển của nó ghi dấu nổi bật thời đoạn hiện tại của nền dân chủ ở nước ta trên “lộ trình” đó và lấy đó làm mặt bằng xuất phát để đề ra các giải pháp. Đảng phải trở thành mẫu mực sáng chói, hấp dẫn đối với toàn xã hội về dân chủ, thực hành văn hóa dân chủ, từ đó phát huy ảnh hưởng trong việc giáo dục, tuyên truyền cán bộ và nhân dân kiên định con đường xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cần cụ thể hóa phương thức lãnh đạo dân chủ của Đảng đối với Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, toàn thể nhân dân và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc phương thức đó.
Nhà nước cần đầy mạnh hơn quá trình xây dựng pháp luật theo tinh thần chuyển từ pháp luật xem nhân dân là đối tượng sang pháp luật lấy nhân dân là chủ thể. Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, tập trung vào “thể chế, bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và hiện đại nền hành chính quốc gia”13. Đặc biệt là – xét từ nhu cầu của việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân – đẩy mạnh sự nghiệp phát triển giáo dục, khoa học, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho đông đảo nhân dân trở nên bức thiết hơn bao giờ hết khi nhân dân là người trực tiếp thi hành quyền dân chủ của mình. Điều đó đòi hỏi mọi người nâng ý thức làm chủ vì cá nhân mình lên ý thức làm chủ vì tập thể, cộng đồng, quốc gia; biết giải quyết đúng đắn hàng loạt mối quan hệ: giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cục bộ và lợi ích toàn thể, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Học dân chủ trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người và phải học thường xuyên trong suốt cuộc đời, học đi đôi với hành để tri thức dân chủ biến thành phẩm chất, kỹ năng vận dụng vào cuộc sống.
Mới đây thôi, chúng ta được chứng kiến một tấm gương làm chủ tuyệt vời của người Nhật. Trong tai họa mất còn họ vững vàng chịu đựng, sát cánh bên nhau, chia xẻ nhường nhịn, dám nhận về mình sự hy sinh cao nhất, bình tĩnh và khẩn trương tìm cách để giảm thiểu tai họa đến mức có thể và để hồi sinh đất nước từ đống đổ nát./.
__________________________
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB CTQG. HN. 2006. tr 117.
*Trước đó, chẳng hạn, trong văn kiện Hội nghị lần thứ Ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII đã nêu: “Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp ...” (Văn kiện đã nêu. NXB CTQG. HN. 1997. tr 41.)
2. Trích theo “Tìm hiểu đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”. NXB Lao Động. tr 220.
3. Sách trên. tr 84.
4. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trích theo “Tìm hiểu Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Lao Động. tr 53.
5. C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập. NXB CTQG.HN. 1994. T17. tr 453.
6. St tr 461.
7. VI.Lênin: Toàn tập, NXB TB. M. 1976. T33. tr 97.
8. Trích theo: Lịch sử chủ nghĩa Mác (dịch từ sách Trung Quốc) NXB CTQG. HN. 2003. Tập III. Tr 53.
9. VI.Lênin:Toàn tập. NXB TB. M. 1977. T 38. tr 199.
10. VI.Lênin: Toàn tập. NXB TB. M. 1978. T 44. tr 218.
11. Xem “Lịch sử chủ nghĩa Mác” (dịch từ Trung Quốc). NXB CTQG. HN 2003. T III. Tr 79.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trích theo “Tìm hiểu đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam”. NXB Lao Động. tr 12.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Trích theo “Tìm hiểu đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam ...” NXB Lao Động. tr 106.