
Đại biểu hiến kế gỡ thẻ vàng IUU, kiểm soát ô nhiễm bụi, bảo tồn biển
Bảo tồn biển: Không thể mãi trông chờ vào ngân sách
Đại biểu Nguyễn Chu Hồi, đoàn TP. Hải Phòng nhấn mạnh, không thể mãi trông chờ vào ngân sách, việc “luật hóa” bảo tồn biển là cấp thiết để bảo vệ chủ quyền và phát triển bền vững.
Trong phiên thảo luận tại Tổ về 3 dự án gồm: Luật Xây dựng (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho rằng, mục tiêu lớn nhất của việc sửa đổi, hợp nhất các luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường là nhằm xóa bỏ tình trạng chồng chéo, phân tán trong quản lý nhà nước, hướng tới một cơ chế điều hành thống nhất, phối hợp hiệu quả giữa các ngành, các lĩnh vực.

Đại biểu Nguyễn Chu Hồi - đoàn TP. Hải Phòng. Ảnh: Thu Hường
Ông dẫn chứng, trước đây trong quá trình triển khai Luật Thủy sản và Luật Tài nguyên, Môi trường biển và Hải đảo, các cơ quan quản lý từng có nhiều vướng mắc trong cấp phép nuôi trồng thủy sản trên biển, khi mỗi bên đều cho rằng “luật của mình đúng”.
“Tuy nhiên, sau khi hệ thống quản lý được hợp nhất (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường) hai cơ quan đã cùng ngồi lại, bàn thảo và thống nhất được hướng xử lý, minh chứng cho tác động tích cực của việc sắp xếp, kiện toàn thể chế quản lý nhà nước theo hướng liên ngành”- đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho hay.
Từ thực tiễn đó, đại biểu Nguyễn Chu Hồi đề nghị thống nhất toàn bộ hệ thống bảo tồn quốc gia dưới một đầu mối quản lý chung. Cụ thể, các khu bảo tồn rừng, khu bảo tồn biển và khu bảo tồn thủy sản nên được gộp chung trong một hệ thống thống nhất, gọi là “hệ thống bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học quốc gia”.
Theo ông, việc hợp nhất này không chỉ giúp tránh phân mảnh trong quản lý, mà còn bảo đảm tính đồng bộ về quy hoạch, tổ chức, đầu tư và giám sát, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột: kinh tế – xã hội – môi trường.
Là người từng 3 lần tham gia quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam, đại biểu Nguyễn Chu Hồi chia sẻ: Từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã phê duyệt 16 khu bảo tồn biển cấp quốc gia, nhưng chỉ có 11 khu có Ban quản lý hoạt động. Đáng lo ngại, phần lớn các khu bảo tồn này chưa đạt hiệu quả quản lý theo 5 tiêu chí cơ bản của IUCN, dẫn đến tình trạng suy giảm nguồn lợi thủy sản, mất cân bằng sinh thái biển.
Đại biểu Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh: “Biển không còn cá, khu bảo tồn không còn là nơi dự trữ nguồn lợi sinh học, trong khi ngư dân chịu thiệt thòi, bị hạn chế hoạt động mà chưa thấy hiệu quả từ công tác quản lý.”
Nguyên nhân chính, theo đại biểu là thiếu nhân lực, thiếu biên chế và cơ chế tài chính ổn định cho các Ban quản lý khu bảo tồn, dẫn đến phụ thuộc, ỷ lại và không chủ động triển khai nhiệm vụ.
Từ thực tiễn đó, đại biểu Nguyễn Chu Hồi đề nghị, trong quá trình sửa đổi, cơ quan soạn thảo cần luật hóa mô hình quản lý thống nhất hệ thống bảo tồn thiên nhiên, xác định rõ vai trò điều phối, trách nhiệm của cơ quan chủ quản, tránh chia cắt theo ngành dọc.
Đồng thời, cần bổ sung cơ chế tài chính và biên chế đặc thù cho khu bảo tồn, bảo đảm hoạt động bền vững, giảm phụ thuộc ngân sách nhà nước.
Tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy hiệu quả của mô hình quản lý thống nhất vừa qua, coi đây là minh chứng cho sức mạnh của thể chế khi được thiết kế hợp lý.
Ông khẳng định: “Đây là cơ hội quan trọng để chúng ta khẳng định tính đúng đắn của mô hình cải cách thể chế, hướng tới quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ thiên nhiên và phát triển bền vững. Nếu không nắm bắt và thể chế hóa ngay trong lần sửa luật này, chúng ta sẽ rất khó tạo ra bước đột phá.”

Hiện mới có 11/16 khu bảo tồn biển ở Việt Nam có Ban quản lý. Ảnh minh họa: Thu Hường
Đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho hay, các khu bảo tồn hiện nay hầu như không có nguồn vốn từ dự án, chủ yếu dựa vào nước ngoài, đó là một thực tế đáng buồn của hệ thống bảo tồn, đặc biệt là bảo tồn biển. Ông nhấn mạnh, ý nghĩa của các khu bảo tồn biển không chỉ nằm ở việc gìn giữ nguồn lợi tự nhiên, mà còn gắn với phát triển kinh tế lâu dài cho đất nước, thúc đẩy "cách mạng xanh" trong chuyển đổi sinh thái biển, đồng thời là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển.
Đại biểu nhấn mạnh, ở đâu có tổ quốc Việt Nam có vùng biển Việt Nam chúng ta có quyền thiết lập những khu bảo tồn biển để giữ nguồn lợi tài nguyên của mình.
“Ý nghĩa chính trị rất lớn nhưng tôi cho rằng ý thức chưa rõ. Lần này cần phải đưa vào luật và nguồn lực lấy ở đâu? Xin trả lời chính là cộng đồng người dân. Do đó lần sửa đổi luật lần này chúng ta nên mạnh dạn đưa vai trò của người dân tham gia vào công tác bảo tồn”- đại biểu Nguyễn Chu Hồi đề xuất.
Một trong những bất cập lớn hiện nay là doanh nghiệp - những chủ thể trực tiếp khai thác, sử dụng các vùng biển gần như chưa có đóng góp nào cho công tác bảo tồn tài nguyên biển.
Ông đặt câu hỏi: “Doanh nghiệp là người sử dụng, khai thác tài nguyên biển, vậy tại sao lại không có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho việc bảo tồn những vùng biển ấy? Nếu không có nguồn thu từ khu vực này thì tiền đâu để duy trì hoạt động bảo tồn?”
Tình trạng đổ lỗi, bao biện kéo dài bằng hai lý do quen thuộc: “Thiếu kinh phí” và “thiếu nhân lực”, theo đại biểu, đó không phải là nguyên nhân cốt lõi, mà là biểu hiện của tư duy bao cấp, ỷ lại.
Đại biểu cho biết: "Tôi từng phát biểu rất thẳng thắn tại nhiều hội thảo và góp ý trực tiếp với lãnh đạo các Cục, Vụ trong ngành thủy sản về vấn đề này. Một số người phản ứng, thậm chí tự ái, nhưng đây là sự thật cần nói, vì đó là bài học mà thế giới đã rút ra từ hàng trăm năm trước. Chúng ta đi sau, phải học những điều tốt, đón đầu xu thế quản lý hiện đại, trong đó có việc yêu cầu doanh nghiệp đóng góp tài chính cho bảo tồn không thể giiữ tư duy bao cấp, trông chờ ngân sách".
Bổ sung quy định về giới hạn tổng lượng thải trong Luật Bảo vệ môi trường
Đề cập đến Luật Bảo vệ môi trường, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho rằng cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ sự cố môi trường biển ở Hà Tĩnh để hoàn thiện các quy định tiêu chuẩn, kỹ thuật về xả thải.
Ông phân tích, hiện nay các quy chuẩn môi trường chủ yếu quy định nồng độ chất thải sau xử lý, chẳng hạn cyanua không vượt quá 0,3 mg/lít, nhưng lại không quy định tổng lượng thải trong một đơn vị thời gian. Điều này dẫn đến nguy cơ ô nhiễm tích lũy, bởi cùng một nồng độ nhưng nếu lượng xả quá lớn thì tác động cộng hưởng đến môi trường vẫn cực kỳ nghiêm trọng.
“Nếu một cơ sở xả 1 tạ chất thải trong một giờ thì tác động có thể nhỏ, nhưng cũng ở mức nồng độ đó, nếu xả 1 tấn thì hậu quả sẽ khôn lường. Cái cần kiểm soát không chỉ là nồng độ mà là tổng lượng thải theo thời gian”, ông phân tích.
Vì vậy, cần có định hướng rõ để các cơ quan chuyên môn ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật về tổng lượng thải cho phép, thay vì chỉ dừng ở quy định nồng độ. Đây là yếu tố quyết định để kiểm soát ô nhiễm thực chất, đặc biệt trong các ngành có nguy cơ cao như công nghiệp luyện kim, hóa chất, dệt nhuộm, xi măng…
Bên cạnh đó, liên quan đến kiểm soát ô nhiễm không khí, bụi mịn và tiếng ồn đô thị, đại biểu Nguyễn Chu Hồi cho biết: Việc kiểm soát ô nhiễm không khí, bụi mịn và tiếng ồn đô thị cần được thực hiện ngay từ khâu quy hoạch và xây dựng hạ tầng, thay vì chạy theo để xử lý hậu quả.
Ông nhấn mạnh, Luật Bảo vệ môi trường cần phối hợp chặt chẽ với Luật Xây dựng, thống nhất quy định về quản lý tại nguồn phát thải, đặc biệt tại các công trình giao thông, khu đô thị, nhà máy, bến bãi…
“Chúng ta nói nhiều về ô nhiễm không khí, bụi, tiếng ồn… Hà Nội từng được xếp vào nhóm thành phố ô nhiễm hàng đầu thế giới. Nhưng nếu không xác định đúng nguồn phát thải và không kiểm soát từ gốc, mọi giải pháp chỉ là tình thế”, đại biểu nói.
Ông khẳng định, một trong những nguồn gây ô nhiễm lớn hiện nay đến từ chất thải xây dựng và vật liệu thi công hạ tầng. "Các tuyến đường ở Việt Nam, sau khi rải nhựa chỉ khoảng 6 tháng là chuyển sang màu xám xi măng. Điều đó phản ánh tình trạng bụi phát tán trực tiếp từ nguồn thải xây dựng và bụi lắng trên bề mặt”- ông nói
Ông kể lại, "mỗi lần qua đi sân bay Nội Bài vào sáng sớm, tôi đều thấy đường dẫn lên cầu Nhật Tân đầy bùn đất, nhếch nhác, do ban đêm có xe vận chuyển đất từ sông Hồng mà không rửa đường. Một con đường mà khách quốc tế từ sân bay Nội Bài vào Hà Nội mà trông bẩn như vậy thì hình ảnh quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ở nhiều nước phát triển, các tuyến đường sau 30 năm vẫn sạch, không xuống màu, điều đó cho thấy trình độ quản lý môi trường và ý thức xã hội".
Theo đại biểu, nguyên nhân sâu xa nằm ở chỗ thiếu sự phối hợp giữa Luật Xây dựng và Luật Bảo vệ môi trường, khi các quy định hiện hành thiếu tính khả thi trong thực tế. Do vậy, cần có quy định cụ thể về quản lý vật liệu thi công, kiểm soát bụi, hoàn nguyên sau xây dựng và xử lý chất thải xây dựng.
“Chúng ta nói nhiều về phát triển xanh, nhưng ngay những vấn đề nhỏ nhất như bụi, bùn, vật liệu rơi vãi vẫn chưa làm được. Chính những điều tưởng nhỏ đó đang gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng ở các đô thị lớn,” ông nêu rõ.
Đưa chế tài vào Luật nhằm gỡ thẻ vàng IUU
Liên quan đến dự thảo Luật Thủy sản (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Chu Hồi thẳng thắn cho rằng, nỗ lực gỡ thẻ vàng IUU đã kéo dài 8 năm, huy động cả hệ thống chính trị nhưng kết quả vẫn chưa đạt kỳ vọng.
Ông đánh giá, việc Việt Nam sớm đưa 14 quy định IUU vào Luật Thủy sản là bước đi kịp thời, nhưng mới dừng lại ở mức tiêu chí nhận diện hành vi vi phạm, chứ chưa có chế tài xử lý cụ thể.

Đại biểu Nguyễn Chu Hồi đề xuất đưa chế tài vào Luật là giải pháp quan trọng để gỡ thẻ vàng IUU. Ảnh minh họa
“Luật chỉ nói thế nào là IUU, nhưng nếu vi phạm thì xử lý ra sao lại không có. Phải mất 4–5 năm sau khi thực hiện, chúng ta mới bổ sung các quy chế và quyết định xử phạt, đến nay mới xử được hơn 20 vụ con số còn rất khiêm tốn” đại biểu chỉ rõ.
Ông kiến nghị, trong lần sửa đổi tới, cần tổng kết toàn diện thực tiễn thực thi IUU, rà soát các quy định xử phạt đã ban hành và đưa vào Luật Thủy sản một chương riêng hoặc điều khoản đầy đủ về chế tài xử lý vi phạm, bảo đảm khả năng thực thi đồng bộ.
Bên cạnh đó, để giải quyết tận gốc vấn đề IUU, không chỉ là quản lý hành vi đánh bắt, mà phải tác động đồng thời tới sinh kế, nghề nghiệp và nguồn lợi biển, cụ thể: Ngư dân phải có cuộc sống và sinh kế ổn định để không buộc phải đánh bắt trái phép; cần có chính sách chuyển đổi nghề bền vững, hỗ trợ ngư dân thích ứng với quy định mới.
Đồng thời, chúng ta phải phục hồi nguồn lợi biển, đặc biệt là các loài cá thương mại có giá trị cao là nền tảng để duy trì nghề cá hợp pháp.
Cuối cùng cần tổ chức lại nghề cá theo hướng hiện đại, gắn quản lý sản lượng với bảo tồn sinh thái, đồng thời phát huy vai trò của ngư dân trong bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Ngư dân không chỉ là lực lượng sản xuất, mà còn là những ‘chiến sĩ trên biển’, góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia. Thể chế hóa được điều đó trong luật là cách bảo vệ chủ quyền từ gốc - từ dân và vì dân.
