Indonesia cấm xuất khẩu dầu cọ, Bộ Công Thương khuyến cáo doanh nghiệp tìm giải pháp Thị trường dầu ăn toàn cầu “sôi sục” sau lệnh cấm của Indonesia |
Năm 2021, Indonesia sản xuất 51,3 triệu tấn dầu thực vật. Gần 2/3 trong số này, 34,2 triệu tấn được xuất khẩu trong khi phần còn lại được dự kiến tiêu thụ trong nước. Vào tháng 3, hàng đoàn người xếp hàng dài tại các cửa hàng chỉ để mua dầu ăn. Sự khan hiếm dường như chỉ phát triển trong một sớm một chiều đã tạo ấn tượng về sự thiếu hụt trong nước.
Câu chuyện bắt đầu vào tháng 2 khi chính phủ thực thi giá bán lẻ tối đa (HET) đối với dầu ăn làm từ cọ ở mức 11.500 rupiahs/lít (0,79 USD) đối với dầu ăn không nhãn hiệu chưa tinh chế, 13.500 rupiahs (0,93 USD) đối với nhãn hiệu nhỏ, và 14.000 rupiahs (0,96 USD) cho dầu ăn cao cấp có thương hiệu. Giá ấn định là một phần của chính sách được gọi là nghĩa vụ về giá trong nước (DPO), được thiết kế để cung cấp dầu ăn, một trong những mặt hàng chủ lực của thực phẩm ở Indonesia, với giá cả phải chăng. Nhưng chính phủ đã đánh giá quá cao mức độ chấp nhận trong ngành đối với mức giá mới, thấp hơn nhiều so với thị trường. Ví dụ, vào tháng 12/2021, dầu ăn đã được bán ở Indonesia với giá hơn 20.000 rupiahs/lít.
Không có gì ngạc nhiên khi ngành công nghiệp này phản ứng. Trong khi công khai chấp thuận chỉ thị của chính phủ, các nhà phân phối lớn đã tiến hành giữ lại nguồn cung cấp cho các trung tâm bán lẻ và chợ. Đã có những lời chỉ trích mạnh mẽ khi nguồn cung dầu ăn cạn kiệt, dẫn đến những người vẫn có thể mua và tích trữ hoảng loạn. Cuối cùng, Bộ Thương mại đã thu hồi chính sách HET vào ngày 16/3.
Bằng cách bỏ chỉ thị, các nhà kinh doanh dầu mỏ được cho là sẽ ít bị “cám dỗ xuất khẩu” dầu ăn dành cho thị trường nội địa vì sự chênh lệch giá cả. Tại phiên điều trần trước quốc hội Indonesia, Bộ Thương mại nước này cho rằng sự khan hiếm dầu ăn trong thị trường nội địa là do sự tồn tại của các nhóm, tập đoàn nhưng không thể làm gì nhiều để hạn chế. Ngay sau khi HET ngừng hoạt động, lượng dầu ăn dồi dào bất ngờ xuất hiện trở lại trên thị trường - nhưng với mức giá gần như gấp đôi mức giá do chính phủ quy định, một kết quả khiến người tiêu dùng lo ngại, Tổng thống Indonesia yêu cầu chính phủ giải quyết vấn đề trước khi ban hành lệnh cấm xuất khẩu.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất dầu cọ Indonesia cho rằng, chính phủ đang hạ thấp các nhà xuất khẩu. Hiệp hội Các nhà sản xuất dầu cọ Indonesia (GAPKI) phủ nhận việc các thành viên thích thị trường xuất khẩu hơn đối tác nội địa, đồng thời số liệu xuất khẩu gần đây thực sự cho thấy xu hướng giảm. Thay vào đó, tốc độ mà chính phủ đã thực hiện thay đổi giá là lý do chính dẫn đến sự hỗn loạn sau đó.
Động thái này có tiền lệ trong lệnh cấm xuất khẩu than vào tháng 1 trước đó. Lệnh cấm than cũng là một hành động trừng phạt đối với ngành công nghiệp than vì đã không đáp ứng được kỳ vọng của chính phủ theo DPO.
Theo chính sách này, ngành than phải cung cấp cho công ty điện quốc doanh (PLN) với giá thấp hơn thị trường 5,1 triệu tấn. Sau đó, ngành công nghiệp tỏ ra bất hợp tác khi chỉ giao được 35.000 tấn. Lệnh cấm chấm dứt sau khi ngành công nghiệp tái khẳng định cam kết với DPO.
Hiện tại, câu hỏi đặt ra cho xuất khẩu dầu cọ là khi nào ngành công nghiệp và chính phủ có thể đạt được thỏa hiệp. Việc tiếp tục lệnh cấm vô thời hạn sẽ chỉ gây tổn hại cho cả hai bên, do quy mô của ngành và tầm quan trọng chiến lược đối với nền kinh tế Indonesia.
Năm 2021, dầu cọ chiếm 13% tổng kim ngạch xuất khẩu của Indonesia, khiến nước này trở thành một trong những mặt hàng chính của nước này. Ngành công nghiệp này là ngành xuất khẩu thu nhập lớn thứ ba của Indonesia và sử dụng khoảng 3,7 triệu người. Lệnh cấm xuất khẩu than chỉ kéo dài trong một tháng, trong đó áp lực cả trong nước và quốc tế dồn lên Jakarta.