Lợi ích kép của RCEP trong thế giới hậu Covid-19 RCEP năm 2020 và trật tự châu Á tương lai Cần chiến lược “tấn công – phòng thủ” để tận dụng tối đa cơ hội từ RCEP |
Sáng ngày 20/1, với sự hỗ trợ của Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Thực hiện hiệu quả RCEP gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam”.
RCEP – hướng nhiều đến tạo thương mại
Tại hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh – Viện trưởng CIEM – cho rằng, bao phủ vùng lãnh thổ với 30% dân số toàn cầu, Hiệp định RCEP tạo ra một thị trường lớn và tiềm năng cho xuất khẩu. Các nghiên cứu định lượng thực hiện cho đến nay đều cho thấy RCEP có tác động tạo thương mại, chứ không chỉ là chuyển hướng thương mại.
Ngay cả với nhập khẩu, Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực.
Đối với đầu tư nước ngoài, Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của chiến tranh thương mại, công nghệ Mỹ - Trung Quốc, cũng như những xu hướng cân nhắc mới trong và sau đại dịch Covid-19.
Ngoài các nội dung truyền thống như thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, hàng rào kỹ thuật, RCEP còn đưa vào một số nội dung mới hơn như thương mại điện tử, cạnh tranh,... Tuy nhiên, khác với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định RCEP không có các chương như môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước... Song so với các FTA ASEAN+1 khác, RCEP đã đưa vào không ít nội dung mới, gần sát với các FTA thế hệ mới, như thương mại điện tử, cạnh tranh, mua sắm chính phủ... Do đó, bản thân RCEP có cách tiếp cận “tiệm tiến” nhằm thể hiện dư địa để có thể cải thiện chất lượng cam kết ngay cả khi hiệp định đã đi vào thực thi.
Theo nhóm nghiên cứu của CIEM, tác động của RCEP đối với cải cách thể chế cũng hiện hữu, chủ yếu theo hướng tăng cường thêm động lực cho Việt Nam thực hiện các cải cách đã được xác định gắn với các cam kết trong CPTPP và EVFTA.
Lo ngại về mức độ tự chủ nền kinh tế
Tại hội thảo, có ý kiến cho rằng, RCEP vẫn có lợi ích ròng về kinh tế, song cũng có ý kiến RCEP làm tăng rủi ro nhập siêu trong khi không có nhiều tác động về thể chế đối với Việt Nam. Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam), lo ngại về thách thức của RCEP tập trung vào 2 yếu tố. Thứ nhất, các đối tác của RCEP là đối tác Việt Nam nhập siêu rất lớn, có cơ cấu nền kinh tế khá tương đồng, cạnh tranh với Việt Nam, nên thách thức từ nhập siêu có thể rất lớn trong tương lai. Thứ hai, RCEP mặc dù là FTA thế hệ mới nhưng những yêu cầu, tiêu chuẩn của FTA lại thấp hơn so với các hiệp định vừa mới thực hiện gần đây như CPTPP, EVFTA. Vì vậy có những lo ngại cho rằng, tiêu chuẩn thấp ở RCEP khiến cho Việt Nam mất đi động lực để cải cách thể chế.
“Ngoài ra, đối với doanh nghiệp, những yêu cầu không quá cao từ các đối tác RCEP làm cho doanh nghiệp làm mất đi động lực, mối quan tâm cần thiết để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của thị trường. Chính những thách thức này đặt ra không chỉ đối với nền kinh tế, thể chế mà cả với các doanh nghiệp”- bà Nguyễn Thị Thu Trang cho hay.
Những thách thức này ít nhiều đều ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, song theo ông Nguyễn Anh Dương – Trưởng ban Ban nghiên cứu tổng hợp (CIEM), điều này vẫn có thể xử lý được. Xử lý thách thức về thể chế phụ thuộc vào mức độ toàn diện trong cách tiếp cận của Việt Nam, và khó có thể hiệu quả nếu nhìn nhận vấn đề thương mại và đầu tư nước ngoài một cách rời rạc khi thực hiện RCEP.
Với những phân tích trên, báo cáo của CIEM đã đưa ra cách tiếp cận để thực hiện hiệu quả RCEP gắn với bảo đảm mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam với năm nhóm giải pháp chính. Đó là tiếp tục thực hiện các cải cách đối với nền tảng kinh tế vi mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đặt chính sách đầu tư ở vị trí trung tâm, tư duy định hướng về một số ngành cần ưu tiên phát triển, các ngành cần thúc đẩy tự do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực. Việc hoàn thiện chính sách thương mại, nhất quán với chính sách đầu tư sẽ góp phần giúp Việt Nam xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị khu vực RCEP.
Nhóm tác giả cũng đề nghị Việt Nam cần sớm thực hiện và xử lý mạnh mẽ các điểm nghẽn về hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó có sự tham gia của các nhà đầu tư và đối tác nước ngoài ở trình độ phù hợp.
“Do CPTPP và EVFTA có tiêu chuẩn cao hơn và đã đi vào thực hiện, quá trình cải cách ở các lĩnh vực liên quan cần hướng tới các tiêu chuẩn trong hiệp định này một cách nghiêm túc, thay vì chờ đợi đến khi có RCEP”- ông Nguyễn Anh Dương nhấn mạnh.