Chuyển đổi số: Nâng tầm nông sản, kết nối xuất khẩu quốc tế

Chuyển đổi số không chỉ là cơ hội nâng cao năng suất, giảm chi phí, mà còn là yếu tố quyết định để nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường xuất khẩu chất lượng cao.

Sáng 29/10, tại Hà Nội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”.

Chỉ 32% hợp tác xã nông nghiệp bước vào hành trình chuyển đổi số

Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đóng góp khoảng 12 - 14% GDP và giá trị xuất khẩu nông - lâm - thủy sản dự kiến đạt ít nhất 65 tỷ USD trong năm 2025, chuyển đổi số đang mở ra cơ hội phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của các hợp tác xã.

Tuy nhiên, theo khảo sát của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, trong số gần 35.000 hợp tác xã cả nước, chỉ có 13,6% đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện, tương đương mức độ chuyển đổi số toàn quốc chỉ đạt 32%.

Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”. Ảnh: N.H

Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”. Ảnh: N.H

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, nhấn mạnh, chuyển đổi số là hướng đi tất yếu để hợp tác xã nông nghiệp nâng cao năng lực quản lý, sản xuất và tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế. Đây không chỉ là giải pháp để nâng năng suất và chất lượng nông sản, mà còn giúp hợp tác xã cải thiện đời sống nông dân, tăng doanh thu và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu ngày càng khắt khe.

Mặc dù nhu cầu chuyển đổi số cấp bách, quá trình triển khai tại hợp tác xã còn chậm so với các ngành kinh tế khác, với nhiều thách thức chính. Về tài chính, thách thức của các hợp tác xã là thiếu vốn đầu tư chuyển đổi số khi mà chi phí đầu tư cho công nghệ số trong nông nghiệp khá lớn, lại khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. 

Về hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế, đường truyền internet không ổn định, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Nguồn nhân lực còn hạn chế do thiếu đội ngũ chuyên gia về công nghệ số trong nông nghiệp. Nông dân chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng sử dụng công nghệ số. 

Bên cạnh đó, chính sách và cơ chế chưa đồng bộ. Cụ thể, chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh để thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành và địa phương. 

Bà Vân cũng chỉ ra tâm lý e ngại thay đổi là một trở ngại lớn: “Nhiều thành viên hợp tác xã còn quen với phương pháp truyền thống, chưa tin tưởng hiệu quả công nghệ số. Một số hợp tác xã nhầm lẫn giữa chuyển đổi số và chạy theo công nghệ hào nhoáng như AI, blockchain, Big Data hay IoT, trong khi thực chất chuyển đổi số là nâng cao năng lực quản lý, sản xuất và truy xuất nguồn gốc nông sản”.

Theo bà, chuyển đổi số trong nông nghiệp là hành trình chiến lược để hợp tác xã và nông dân nâng cao năng lực trong các hoạt động cốt lõi: quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc, giám sát chất lượng, giảm phát thải, tiếp thị và kết nối cung - cầu, cũng như quản trị nhân sự.

Xu hướng “xanh” gắn liền chuyển đổi số

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), chuyển đổi xanh và chuyển đổi số là xu thế tất yếu. Với giá trị sản xuất nông nghiệp đạt trên 400 tỷ USD, việc hướng đến nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại và ứng dụng công nghệ cao là yêu cầu bắt buộc để duy trì tăng trưởng bền vững.

So với Trung Quốc, Thái Lan hay EU, tốc độ chuyển đổi số trong nông nghiệp Việt Nam còn chậm. Trung Quốc đã triển khai nền tảng số quốc gia đến từng HTX và trang trại; Thái Lan áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử bắt buộc với nông sản xuất khẩu; EU còn mở rộng nông nghiệp số sang thương mại carbon và tín chỉ phát thải. Việt Nam chưa có hệ thống truy xuất số đồng bộ, khiến tiến trình hội nhập quốc tế bị chậm trễ.

Định hướng xây dựng hệ sinh thái số, theo TS. Lê Đức Thịnh, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai các giải pháp xây dựng hệ sinh thái số cho HTX. Theo đó, xây dựng nền tảng số dùng chung cho khu vực HTX và kinh tế tập thể, dự kiến hoàn thành và đưa vào vận hành từ tháng 6/2026. Nền tảng này sẽ kết nối dữ liệu về truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, tiêu chuẩn sản xuất, logistics, và hợp đồng điện tử.

Bên cạnh đó, phối hợp với các đối tác quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản, để học hỏi mô hình hệ sinh thái số của Liên đoàn Hợp tác xã Nông nghiệp Nhật Bản. Bộ cũng đã ký kết hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài nước để xây dựng khung dữ liệu, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

Đồng thời, trong quá trình sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Bộ sẽ thể chế hóa mô hình hệ sinh thái số và chuỗi liên kết số, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong nông nghiệp.

Ông Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), đề xuất, cần xây dựng kiến trúc số riêng cho khu vực hợp tác xã. Theo đó, trong khung kiến trúc số của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cần có tiểu hệ thống dành riêng cho Liên minh Hợp tác xã và các hợp tác xã. Đây sẽ là công cụ kết nối dữ liệu, quản trị và giao dịch xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, chuẩn hóa dữ liệu nông nghiệp quốc gia, đẩy nhanh nền tảng “Hợp tác xã số”, mở rộng các sàn giao dịch công nghệ.

Chuyển đổi số hợp tác xã không chỉ là nâng cao năng suất và hiệu quả, mà còn là điều kiện bắt buộc để nông sản Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế, tăng giá trị xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh. Việc ứng dụng đồng bộ công nghệ số, kết hợp với chính sách hỗ trợ và đào tạo nhân lực, sẽ giúp hợp tác xã Việt Nam vượt qua rào cản, phát triển bền vững và hiện đại.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, đối với Việt Nam, hệ sinh thái số không còn là “có nên làm hay không”, mà là điều kiện bắt buộc để nông sản được công nhận và tiếp cận thị trường quốc tế.

Nguyễn Hạnh
Bình luận

Có thể bạn quan tâm