Chiều 14/11, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trưởng về dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), nhiều nội dung liên quan đến nguyên tắc bảo toàn vốn và cơ chế trích lập các quỹ, thời gian chi trả, phân cấp thẩm quyền quy định mức phí bảo hiểm được đại biểu quan tâm, phân tích, góp ý.
Củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng
Phát biểu thảo luận tại hội trường, đại biểu Thái Thị An Chung - đoàn Nghệ An khẳng định, đây là dự án luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và phương pháp của người gửi tiền, góp phần củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng.

Đại biểu Thái Thị An Chung - đoàn Nghệ An. Ảnh: QH
Góp ý vào dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) về phân cấp thẩm quyền quy định mức phí bảo hiểm điện tử (khoản 1, Điều 19), đại biểu Thái Thị An Chung cho rằng việc phân cấp thẩm quyền quy định về phí bảo hiểm tiền gửi cho Thống đốc Ngân hàng nhà nước là phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phân cấp phân quyền hiện nay, đồng thời phù hợp với thẩm quyền chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước.
Mỗi mô hình tính phí đồng hạng hay phân biệt đều có ưu và nhược điểm riêng. Với phí phân biệt, lợi thế là tạo động lực cho các tổ chức tín dụng cải thiện quản trị, hoạt động an toàn hơn để được hưởng mức phí thấp. Tuy nhiên, hạn chế là những tổ chức tín dụng có xếp hạng thấp hoặc đang gặp khó khăn về tài chính lại phải nộp mức phí cao hơn, dễ làm tăng thêm áp lực cho họ.
Từ phân tích trên, đại biểu cho rằng cần quy định áp dụng mức phí bảo hiểm để gửi đồng hạng hoặc phân biệt phù hợp với đặc thù của hệ thống tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ là phù hợp. “Tuy nhiên trong trường hợp ngân hàng nhà nước quyết định áp dụng tính phí phân biệt theo mức độ rủi ro tôi đề nghị cần bổ sung vào thảo luật quy định bảo mật thông tin về mức xếp hạng và mức phí bảo hiểm tiền gửi”- đại biểu Chung đề xuất.
Liên quan đến vấn đề bồi thường, đại biểu Trần Hồng Nguyên – đoàn Lâm Đồng cho rằng nguyên tắc cơ bản của hoạt động bảo hiểm là đảm bảo người được bảo hiểm được bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời khi xảy ra sự cố.
“Mặc dù tổ chức bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam được thành lập từ năm 1999, nhưng đến nay việc chi trả bảo hiểm còn rất hạn chế; mới chỉ chi trả cho 39 quỹ tín dụng nhân dân quy mô nhỏ. Từ khi Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 ban hành đến nay, hầu như chưa phát sinh nghĩa vụ chi trả đối với bất kỳ tổ chức tín dụng nào”- đại biểu nêu.

Chiêu 14/11 Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi). Ảnh: QH
Đại biểu Trần Hồng Nguyên đồng tình với hướng tiếp cận mới của dự thảo là cho phép phát sinh nghĩa vụ chi trả sớm hơn, cụ thể là khi Ngân hàng Nhà nước ban hành văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi đối với tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt, có lỗ lũy kế vượt quá 100% vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính kiểm toán gần nhất.
Tuy nhiên, từ thực tiễn xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc trong bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Vì vậy, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để bảo đảm quy định này có cơ sở thực tiễn vững chắc và đủ khả năng triển khai.
Quy định mức trần trong trích lập các quỹ
Ở góc nhìn khác, đại biểu Phan Đức Hiếu – đoàn Hưng Yên đã góp ý về nguyên tắc bảo toàn vốn và cơ chế trích lập các quỹ trong dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Theo đại biểu, tổ chức bảo hiểm tiền gửi là một mô hình rất đặc thù, với hai nhóm hoạt động khác nhau cần phân biệt rõ để tránh áp dụng một nguyên tắc chung không phù hợp.
Thứ nhất, là hoạt động nghiệp vụ, đây là hoạt động mà tổ chức chỉ thu phí, và trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ thì phải chi trả để bảo vệ người gửi tiền. Vì có thể phải chi ra bất cứ lúc nào, nên nguyên tắc “bảo toàn và phát triển vốn” không thể áp dụng trọn vẹn cho hoạt động này.

Đại biểu Phan Đức Hiếu - đoàn Hưng Yên. Ảnh: QH
Thứ hai, là hoạt động đầu tư, đối với phần vốn được phép đầu tư, nguyên tắc “bảo toàn và phát triển vốn” được quy định tại khoản 7 Điều 14 là hoàn toàn phù hợp và cần thiết.
Tuy nhiên, dự thảo lại gộp cả hai nhóm hoạt động này để đưa vào khoản 2 Điều 7 một nguyên tắc chung, cũng dùng cụm “bảo toàn và phát triển vốn”. Theo đại biểu, cách khái quát như vậy chưa phản ánh đúng bản chất và dễ gây hiểu sai.
Vì vậy, đại biểu đề nghị cân nhắc hai hướng: Bổ sung thêm cụm từ “an toàn” để bao quát đúng đặc thù của hoạt động nghiệp vụ; hoặc thay cụm “bảo toàn và phát triển vốn” bằng từ “an toàn” để bảo đảm chính xác và linh hoạt hơn.
Góp ý về trích lập quỹ tại Điều 30, khoản 4, đại biểu đồng tình với thứ tự trích lập quỹ như dự thảo. Tuy nhiên, đại biểu Phan Đức Hiếu bày tỏ băn khoăn lớn nhất tại điểm d, khi dự thảo giao cho Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tỷ lệ trích lập các quỹ theo điểm b và c. Dù quy định tỷ lệ là cần thiết để tránh tình trạng “ưu ái quá mức” cho các quỹ tại điểm b dẫn tới thiếu nguồn cho quỹ dự phòng nghiệp vụ, nhưng như vậy là chưa đủ.
Theo đại biểu, nhiều quỹ tại điểm b, đặc biệt như quỹ đầu tư phát triển không thể trích lập “không giới hạn”. Khi quỹ đã đạt đến mức nhất định thì việc tiếp tục đưa thêm tiền vào sẽ không còn mang lại giá trị sử dụng, thậm chí gây lãng phí nguồn lực. Vì vậy, ngoài tỷ lệ trích lập, cần phải quy định thêm mức trần cho các quỹ này.
"Chỉ khi có đồng thời tỷ lệ và mức trần, thì mới bảo đảm được sự cân đối hợp lý, tránh việc trích lập quá nhiều vào nhóm quỹ điểm b, gây thiếu hụt cho quỹ dự phòng nghiệp vụ vốn là quỹ có vai trò đặc biệt quan trọng để bảo vệ người gửi tiền trong các tình huống rủi ro"- đại biểu Phan Đức Hiếu nhấn mạnh.
Đại biểu đề nghị bổ sung vào điểm d nhiệm vụ của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quy định cả tỷ lệ và mức trần trích lập, nhằm bảo đảm sự phù hợp thực tiễn và sự an toàn tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Dự kiến Quốc hội sẽ biểu quyết, thông qua dự Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) vào ngày 10/12.





