Cần chiến lược xây dựng hệ sinh thái xúc tiến thương mại toàn diện

Chiều 18, Cục Xúc tiến thương mại tổ chức Hội thảo trao đổi, xây dựng báo cáo xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch 2026-2030.

Thành tựu nổi bật trong giai đoạn 2021-2025

Báo cáo “Xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch xúc tiến thương mại giai đoạn 2026-2030” do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) được giao chủ trì xây dựng, tập trung đánh giá thực trạng công tác xúc tiến thương mại trong giai đoạn 2021-2205, từ đó xác định những yêu cầu, định hướng hoàn thiện khung chính sách, pháp lý và tổ chức thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại hiệu quả, hiện đại và bền vững trong giai đoạn 2026-2030.

Đánh giá thực trạng, hiệu quả và năng lực của mạng lưới xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 tại hội thảo, PGS.TS Phan Thế Công - Trường Đại học thương mại - Trưởng nhóm tác giả xây dựng báo cáo cho biết, hướng tới giai đoạn 2026-2030, việc đánh giá thực trạng, hiệu quả hoạt động, tổ chức xúc tiến thương mại trong giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

PGS.TS Phan Thế Công - Trường Đại học thương mại - Trưởng nhóm tác giả xây dựng báo cáo. Ảnh: Đỗ Nga

PGS.TS Phan Thế Công - Trường Đại học thương mại - Trưởng nhóm tác giả xây dựng báo cáo. Ảnh: Đỗ Nga

Theo đó, Báo cáo được hoàn thiện dựa trên khảo sát sâu rộng từ các trung tâm xúc tiến, hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp. Báo cáo cũng được hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế như SIPPO (Thụy Sĩ), đánh giá toàn diện hoạt động xúc tiến thương mại, nêu bật thành tựu, hạn chế và đề xuất hướng đi mới, góp phần thúc đẩy xuất khẩu bền vững. 

Chỉ ra  những tác động ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại trong giai đoạn qua, theo ông Công, giai đoạn này chứng kiến nhiều thuận lợi từ việc tham gia các FTA mới như Israel, UAE và thực thi hiệu quả CPTPP, EVFTA, UKVFTA. Kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao, với độ mở kinh tế gần 200% GDP, góp phần từ sự hỗ trợ của hoạt động xúc tiến thương mại.

"Với khoảng 100 đề án xúc tiến thương mại hàng năm đã được phê duyệt, hỗ trợ gần 10.000 lượt doanh nghiệp, ký kết hợp đồng xuất khẩu đạt hàng trăm triệu USD; Thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Trung Quốc, ASEAN được duy trì ổn định... đã mang lại những khởi sắc mạnh mẽ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua" - ông Công nói. 

Về chỉ số đánh giá năng lực của mạng lưới xúc tiến thương mại, ông Công cho biết, Báo cáo sử dụng bộ chỉ số TPCI để đánh giá với 52 đơn vị tham gia. Kết quả cho thấy điểm mạnh thể hiện ở yếu tố quản lý chiến lược (65,7%), nguồn lực và quy trình (63,3%), truyền thông (62,5%). Trong đó, Bộ Công Thương và Cục Xúc tiến thương mại đóng vai trò trụ cột, phối hợp với các bộ ngành, địa phương và hiệp hội như VCCI, VOAA, Lefaso, VASEP... hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm đa số trong hoạt động xúc tiến thương mại. 

Để thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại trong giai đoạn tới, ông Công nhấn mạnh, khái niệm xúc tiến thương mại cần cập nhật trong bối cảnh mới, tích hợp chuyển đổi số, xanh hóa, không giới hạn ở hội chợ truyền thống mà mở rộng kết nối cung cầu, nâng cao năng lực doanh nghiệp thích ứng chuỗi giá trị toàn cầu. 

Việc đánh giá thực trạng, hiệu quả hoạt động, tổ chức xúc tiến thương mại trong giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng kế hoạch chiến lược cho giai đoạn 2026-2030. Ảnh: Đỗ Nga

Việc đánh giá thực trạng, hiệu quả hoạt động, tổ chức xúc tiến thương mại trong giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng kế hoạch chiến lược cho giai đoạn 2026-2030. Ảnh: Đỗ Nga

Dù đạt kết quả khả quan, ông Phan Thế Công cũng nêu rõ, hoạt động xúc tiến thương mại còn nhiều bất cập như khung pháp lý còn lạc hậu, cụ thể Luật Thương mại 2005 chưa tích hợp đầy đủ yếu tố số hóa, xanh hóa, phát triển năng lực chiến lược. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tuy đầy đủ nhưng bất cập về cơ chế tài chính linh hoạt, nguồn lực hạn hẹp, thiếu phối hợp liên ngành và vùng.

"Cụ thể: Bộ chỉ số TPCI cho thấy điểm yếu ở chuyển đổi số (42%), giám sát đánh giá dữ liệu (46%), phát triển bền vững (58-60%). Năng lực doanh nghiệp còn yếu, giá trị gia tăng nội địa giảm xuống 49% năm 2022, thấp hơn khu vực. Liên kết hệ sinh thái xúc tiến thương mại lỏng lẻo, thiếu đồng bộ dữ liệu, dẫn đến "mạnh ai nấy làm"" - ông Công chỉ ra. 

Một số nguyên nhân được ông Công nêu rõ, chính từ bối cảnh đại dịch, xung đột địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khiến chuỗi cung ứng gián đoạn, nội tại, doanh nghiệp bị động, thiếu chiến lược bài bản, rào cản vốn, công nghệ. Theo đó, tại hội thảo, ông Công lưu ý, cần ghi nhận các ý kiến khác trong báo cáo khảo sát riêng để hoàn thiện.

Cần xây dựng chiến lược đồng bộ, với sự phối hợp đa ngành

Phân tích về bối cảnh mới và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2026-2030 tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Xuân Thuý - Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, đại diện nhóm tác giả đã nhấn mạnh về tính khả thi của kế hoạch, dựa trên năng lực doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời kêu gọi ý kiến đóng góp từ các bên liên quan để hoàn thiện báo cáo.

Theo bà Thuý, với sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như SIPPO (Thụy Sĩ) và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO), báo cáo không chỉ đánh giá giai đoạn cũ mà còn vạch ra lộ trình đổi mới xúc tiến thương mại, nhằm thúc đẩy xuất khẩu bền vững, tăng trưởng 13-16%/năm.

Mục tiêu chính của giai đoạn 2026-2030 là xây dựng hệ sinh thái xúc tiến thương mại toàn diện, kết nối cao, đáp ứng bối cảnh mới. Theo đó, bà Thúy nhấn mạnh: "Khi nói đến hệ sinh thái xúc tiến thương mại phải đầy đủ, bao hàm hết: chuyên nghiệp hóa mạng lưới, đa dạng hóa thị trường, tăng kết nối dịch vụ, ưu tiên ngành hàng hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn".

Theo đó, bà Thuý cho rằng, nhóm tác giả không đưa mục tiêu cụ thể để tránh thiếu thực tiễn, chỉ tập trung vào tăng trưởng xuất khẩu 13-16%/năm – con số đã thách thức. Mục tiêu còn mở rộng đến các lĩnh vực mới, góp phần cho doanh nghiệp Việt và tiềm năng chưa khai thác, đảm bảo tiêu thụ trong nước và xuất khẩu bền vững.

Đưa ra định hướng trong thời gian tới, bà Thuý cho rằng, hoạt động xúc tiến thương mại cần tập trung vào hai nội dung chính là đổi mới toàn diện xúc tiến thương mại và đẩy mạnh vai trò điều phối của Bộ Công Thương. Vai trò Bộ Công Thương được nâng cao để thống nhất mạng lưới, tránh lãng phí nguồn lực.

Bên cạnh đó, theo bà Thuý, xúc tiến thương mại phải đáp ứng chuyển đổi số-xanh, hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa, ưu tiên cụm ngành hàng để mở rộng chuỗi. Định hướng yêu cầu kết nối dữ liệu giữa ngành hàng, địa phương, sản xuất-dịch vụ; kết hợp hội chợ chuyên ngành với sự kiện quốc gia-quốc tế; phát huy thương hiệu quốc gia, ngành hàng, marketing quốc gia và mỗi doanh nghiệp phải gánh hình ảnh quốc gia, không chỉ nghĩ đến cá nhân. 

Hội thảo trao đổi, xây dựng báo cáo xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch 2026-2030 được các chuyên gia đóng góp nhiều ý kiến sau sắc. Ảnh: Đỗ Nga

Hội thảo trao đổi, xây dựng báo cáo xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch 2026-2030 được các chuyên gia đóng góp nhiều ý kiến sau sắc. Ảnh: Đỗ Nga

Để thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại trong giai đoạn tới, báo cáo đã xoay quanh 5 nhóm nhiệm vụ chính cần tập trung: Một là, xúc tiến thương mại cho nhóm ngành hàng ưu tiên: Lựa chọn ngành dựa trên dữ liệu (thực trạng xuất khẩu, tiềm năng, nội địa hóa). Hoạt động ưu tiên giao cho hiệp hội ngành hàng, trung tâm xúc tiến địa phương; Cục Xúc tiến thương mại thực hiện chương trình lớn, đòi hỏi đổi mới cao. 

Hai là, hỗ trợ thông tin đa dạng hóa thị trường: Cung cấp báo cáo chuyên sâu (in-depth market intelligence), định hướng cho doanh nghiệp. Tập trung thị trường truyền thống (Mỹ, EU, Trung Quốc, ASEAN), tiềm năng (Canada, Mexico), thị trường mới nổi (Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latinh). 

Ba là, phát triển mạng lưới xúc tiến thương mại quốc gia: Quy chế phối hợp Bộ Công Thương, cung cấp thông tin từ cơ quan nhà nước, hiệp hội, doanh nghiệp. Đề xuất nhận diện xuất khẩu thống nhất cho Việt Nam; phát triển đội ngũ xúc tiến thương mại; số hóa dữ liệu, quản lý mạng lưới; xây dựng hạ tầng xúc tiến thương mại (triển lãm, logistics, dịch vụ). 

Bốn là, nâng cao năng lực xúc tiến thương mại chủ động của ngành hàng, địa phương, doanh nghiệp: Nộp kế hoạch xúc tiến thương mại để phê duyệt kinh phí; nâng năng lực qua đào tạo; xây dựng quan hệ bền vững khách hàng; chương trình doanh nghiệp dẫn dắt xúc tiến thương mại ngành. Đề xuất Quỹ xúc tiến thương mại ngành-địa phương, đóng góp từ doanh nghiệp xuất khẩu thành công (tỷ lệ xuất khẩu).

Năm là, đổi mới Chương trình cấp quốc gia: Đơn giản quy trình thủ tục; phân bổ hoạt động ưu tiên; đổi mới cách thức (hoàn thiện hệ thống xúc tiến thương mại số, hỗ trợ thương mại điện tử, chuyên sâu bền vững, mở rộng chuỗi giá trị). Đồng thời, tăng sự hỗ trợ từ nguồn kinh phí để thúc đẩy hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại toàn diện, đồng bộ.  

Để đạt được mục tiêu hoạt động xúc tiến mại giai đoạn 2026-2030, theo các chuyên gia tại hội thảo, cần thực hiện các giải pháp bám sát kế hoạch như hoàn thiện thể chế (khung Quỹ xúc tiến thương mại, quy chế phối hợp); tăng phối hợp liên ngành, công-tư; nâng năng lực doanh nghiệp (sản xuất, thương hiệu, chuỗi cung ứng bền vững). Và với sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam có thể đạt mục tiêu kế hoạch hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2026-2030, nâng vị thế trên toàn cầu.

Đỗ Nga - Việt Nga
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận