
Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Xuất khẩu gạo không chịu tác động lớn
Chủ động ứng phó, mở rộng thị trường xuất khẩu gạo
Ngày 11/9, trước thông tin Philippines và Indonesia tạm ngừng nhập khẩu gạo từ đầu tháng 9, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng đã có buổi làm việc với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng lúa gạo.

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng. Ảnh: Bảo Thắng.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhu cầu tiêu thụ gạo toàn cầu đạt khoảng 455 triệu tấn/năm, trong đó lượng gạo nhập khẩu khoảng 65 triệu tấn. Việt Nam hiện là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới với hơn 8 triệu tấn trong năm 2024, kim ngạch gần 6 tỷ USD.
Năm 2025, dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 70 tỷ USD, riêng gạo khoảng 9 triệu tấn nhưng kim ngạch ước chỉ hơn 5 tỷ USD do giá giảm.
So với tổng nhu cầu nhập khẩu toàn cầu, gạo Việt Nam chiếm khoảng 13 - 14%. Dù tỷ trọng chưa lớn, sản phẩm của Việt Nam được đánh giá cao về chất lượng, giá cạnh tranh và hiện đã có mặt tại 150 quốc gia, trong đó Philippines chiếm trên 40%.
Trước thông tin Philippines và Indonesia tạm ngừng nhập khẩu gạo, Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các bộ, ngành liên quan đã đưa ra các giải pháp tổng thể, vừa ứng phó tình huống ngắn hạn, vừa xây dựng chiến lược dài hạn.
Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định, thị trường gạo Việt Nam không chịu tác động lớn, nhờ chuỗi sản xuất - tiêu thụ trong nước vận hành ổn định, nguồn dự trữ quốc gia kịp thời vào cuộc và nhiều thị trường khác đã mở ra cơ hội mới.
Ông Trần Đức Thắng cũng cho rằng, gạo Việt Nam có chất lượng tốt, giá cạnh tranh, nhưng cách tiếp cận thị trường vẫn còn bị động, dễ rơi vào thế bị ép giá. Do đó, doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động “chọn người để bán”, thay vì chỉ chờ đợi thị trường mua.
Về giải pháp, trong ngắn hạn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp các hiệp hội, doanh nghiệp tổng hợp ý kiến, báo cáo Thủ tướng để có chỉ đạo kịp thời, trong đó có hỗ trợ tín dụng, giảm lãi suất, cắt giảm chi phí, xem xét chính sách thuế giá trị gia tăng (VAT).
Bộ cũng đã bổ sung 5 tham tán nông nghiệp tại các thị trường trọng điểm để thúc đẩy xúc tiến thương mại, mở rộng đầu ra sang châu Phi, Nam Mỹ.
Về dài hạn, Bộ sẽ điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu hằng năm linh hoạt theo nhu cầu thị trường quốc tế, tránh lệ thuộc vào một số thị trường lớn, đồng thời nghiên cứu kỹ nhu cầu từng khu vực để doanh nghiệp sản xuất theo “khẩu vị” riêng.
Ông Thắng dẫn chứng, giá gạo tại Nhật Bản hiện ở mức 7.000 - 8.000 USD/tấn, cho thấy dư địa nâng giá trị gạo Việt là rất lớn nếu có chiến lược phù hợp. Bên cạnh đó, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ được đẩy mạnh nhằm cải thiện giống, nâng chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu gạo Việt, qua đó giúp nông dân tăng thêm thu nhập.
Quyền Bộ trưởng cũng lưu ý công tác thông tin tuyên truyền phải kịp thời, chính thống, tránh gây hoang mang và tạo kẽ hở cho tình trạng ép giá nông dân.
“Khẳng định lại, tình hình trước mắt không ảnh hưởng lớn. Về lâu dài, chúng ta sẽ làm tốt hơn để sản xuất ổn định, xuất khẩu thuận lợi, qua đó nông dân và doanh nghiệp cùng được hưởng lợi”, ông Trần Đức Thắng nói.
Không cần lo lắng về đầu ra của hạt lúa
Tại cuộc họp các doanh nghiệp và hiệp hội đều nhấn mạnh, nông dân không cần lo lắng về đầu ra của hạt lúa. Bà Bùi Thị Thanh Tâm, Chủ tịch Vinafood1 khẳng định, cứ dân có gạo là mua. Lượng tồn kho hàng trăm nghìn tấn đang được doanh nghiệp nhà nước tạm trữ, góp phần giữ nguồn hàng và ổn định giá.

Doanh nghiệp và người dân cần chủ động liên kết trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Ảnh minh họa.
Ông Trần Tấn Đức, Thành viên HĐQT Tổng công ty Lương thực Miền Nam cho biết, sau cú giảm giá ngắn hạn, giá lúa đã phục hồi nhờ nhập khẩu từ châu Phi và hoạt động thu mua dự trữ quốc gia. Tới ngày 11/9, lúa chất lượng cao đã vượt 6.000 đồng/kg, lúa thường giữ mức 5.000 đồng/kg.
Tương tự, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT kiêm Phó Tổng giám đốc Trung An đánh giá, vụ hè thu cơ bản đã thu hoạch xong, việc thị trường Philippines tạm ngừng nhập khẩu không ảnh hưởng nhiều tới kế hoạch xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, tại cuộc họp, một số doanh nghiệp cũng gửi kiến nghị đến Chính phủ hỗ trợ xuất khẩu, giải phóng tồn kho trong thời gian sớm để giữ uy tín với đối tác quốc tế.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, mục tiêu kép là vừa bảo đảm an ninh lương thực trong nước, vừa duy trì giá trị xuất khẩu. Nguyên tắc then chốt là sản xuất theo nhu cầu, liên kết chặt chẽ và giảm chi phí.
Hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao tại Đồng bằng sông Cửu Long đã triển khai ở 11 địa phương, với hơn 320.000 ha đăng ký, giúp tăng năng suất 5 - 10% và giảm chi phí 10 - 20%. Theo lịch thời vụ, vụ hè thu cơ bản kết thúc giữa tháng 9, còn vụ thu đông thu hoạch rộ vào tháng 11 - 12. Thứ trưởng Trần Thanh Nam yêu cầu không để xảy ra ùn tắc khi lúa dồn về nhà máy, kho chứa; kiên định giữ cơ cấu lúa chất lượng cao làm nền tảng cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu.
Đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường thông tin, đến hết tháng 8/2025, cả nước đã thu hoạch 3,13 triệu ha lúa, đạt sản lượng 20,52 triệu tấn. Phần còn lại của năm chủ yếu tập trung ở vụ thu đông với kế hoạch gieo hơn 708.000 ha tại Nam Bộ. Đây là dư địa quan trọng để điều tiết cung cầu nếu chuỗi liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp được vận hành nhịp nhàng.
Song song với sản xuất, doanh nghiệp cần đầu tư hạ tầng sau thu hoạch như kho chứa thóc, gạo chuyên dụng, dây chuyền xay xát đạt chuẩn và công nghệ bảo quản hiện đại. Nếu thiếu những mắt xích này, chuỗi cung ứng dễ bị ùn tắc khi vụ thu đông bước vào cao điểm.
"Khi hạ tầng được đầu tư đầy đủ, doanh nghiệp có thể tạm trữ chiến lược, lựa chọn thời điểm bán ra phù hợp với đơn hàng và giá cả quốc tế, thay vì phải bán vội để xoay vòng vốn", Đại diện Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường đưa ra lưu ý.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, 4 tháng cuối năm sản lượng lúa dự kiến đạt thêm 13,8 triệu tấn, trong đó vụ thu đông riêng Đồng bằng sông Cửu Long đóng góp khoảng 6 triệu tấn, lợi thế đặc thù mà các nước trong khu vực không có. Đây được coi là “đệm an toàn” cho xuất khẩu, nhất là khi Philippines có truyền thống tăng nhập khẩu dịp cuối năm.