Máy bay Boeing E-4B Nightwatch của quân đội Mỹ “Điểm mặt“ những máy bay chiến đấu ‘thảm họa’ nhất lịch sử quân đội Mỹ |
Trong Chiến tranh Lạnh, quân đội Mỹ đã phát triển nhiều cách để sử dụng vũ khí hạt nhân tiêu diệt đối phương, bao gồm một loại pháo kéo được chế tạo vào đầu những năm 1950 có thể bắn ra một quả đạn hạt nhân có sức nổ ngang bằng quả bom nguyên tử đã tàn phá Hiroshima.
Vào đầu những năm 1950, có 20 khẩu M65 được sản xuất, với chi phí 800 nghìn USD mỗi chiếc vào thời điểm đó. M65 được biên chế vào một số đơn vị pháo binh mặt đất của quân đội Mỹ.
Đến tháng 5/1953, hai khẩu pháo được đưa tới khu thử nghiệm Frenchman Flat, tại Nevada để thử nghiệm. Trong số hai khẩu pháo được đem đi thử nghiệm, chỉ có một khẩu được khai hỏa trong cuộc thử nghiệm hạt nhân có tên Knothole. Khẩu còn lại được dùng để dự phòng.
M65 là loại pháo lớn nhất của quân đội Mỹ, có thể bắn cả các đầu đạn thông thường và hạt nhân. Có cái tên ban đầu là “Able Annie” (Annie mạnh mẽ) trước khi đổi thành “Atomic Annie” (Annie nguyên tử), đây là một cỗ pháo cỡ nòng 280 mm, có tầm bắn hơn 32 km.
Tại cuộc thử nghiệm, một quả đạn pháo hạt nhân có sức công phá 15 kiloton, tương đương quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, đã được bắn đi ở cự ly 11,2 km, tạo thành một cột khói hình cây nấm, và thổi bay mọi nhà cửa, xe cộ, vật dụng trên khu thử nghiệm.
Loại đạn được M65 sử dụng là W9 có đường kính 280 mm, dài 1,39 m và nặng 390 kg. Nó chứa 50 kg uranium được làm giàu ở cấp độ vũ khí.
Pháo M65 được thiết kế dựa trên mẫu đại bác đường sắt K5 280 mm từng được quân đội phát xít Đức triển khai để oanh tạc các khu vực binh sĩ Mỹ đổ bộ tại Italy trong Thế chiến II. Những khẩu pháo này khi đó được người Đức gọi là “Anzio Annie”.
Với trọng lượng khoảng 85 tấn, khẩu pháo M65 cần đến hai xe vận tải để di chuyển. Pháo M65 được thiết kế nhằm đáp ứng yêu cầu trang bị cho quân đội những vũ khí hạt nhân chiến thuật mạnh hơn vũ khí thông thường nhưng không tạo ra sự hủy diệt quá lớn như vũ khí hạt nhân chiến lược.
Vào tháng 10/1953, M65 xuất hiện ở châu Âu. Nó có mặt ở Đức như một phần vũ khí hạng nặng của tiểu đoàn pháo binh dã chiến 868 Mỹ. Sau đó, pháo hạt nhân M65 cũng có mặt ở Hàn Quốc. Vào thời điểm đó, M65 được coi là công cụ uy lực thực sự để áp đảo trong chiến tranh.
Tuy nhiên, pháo M65 có nhược điểm là quá lớn và cồng kềnh nên khó che giấu, khó vận chuyển bằng máy bay, buộc phải tháo rời các bộ phận và dùng tàu để chở bằng đường biển đến nơi tập kết, sau đó đưa lên tàu hỏa và lắp ráp lại tại căn cứ.
Vào năm 1963, pháo hạt nhân M65 bị loại ra khỏi biên chế sau khi các đạn pháo hạt nhân nhỏ hơn sử dụng trên pháo thông thường 155 mm và 203 mm ra đời.
Kết quả, M65 trở thành khẩu pháo hạt nhân đầu tiên và cuối cùng được chế tạo bởi quân đội Mỹ. Số phận của những hệ thống M65 biên chế trong quân đội Mỹ cũng khác nhau. Một số được phá hủy và chế tạo lại. Trong khi 7 khẩu M65 được bảo quản trong bảo tàng.