Bài học châu Á cho Việt Nam về phát triển năng lượng tái tạo

Chuyển dịch năng lượng sang nguồn tái tạo là xu hướng tất yếu toàn cầu. Kinh nghiệm từ các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia đã gợi mở nhiều cho Việt Nam.

Xu thế phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững đã trở thành yêu cầu cấp bách với mọi quốc gia. Một trong những giải pháp trọng tâm chính là chuyển dịch năng lượng, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ, khí đốt và gia tăng sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, sinh khối, địa nhiệt, thủy điện hay sóng - thủy triều. Đây không chỉ là chìa khóa để giảm phát thải khí nhà kính mà còn góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Không chỉ Việt Nam, nhiều nước trên thế giới cũng đang phát triển nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung năng lượng cũng như tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng thay thế. Ảnh minh họa

Không chỉ Việt Nam, nhiều nước trên thế giới cũng đang phát triển nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung năng lượng cũng như tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng thay thế. Ảnh minh họa

Góp ý tại Diễn đàn đầu tư phát triển năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, ThS. Lê Thị Thùy Dung đến từ Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đánh giá: “Việt Nam có tiềm năng lớn về điện mặt trời, điện gió trên bờ và ngoài khơi, thủy điện vừa và nhỏ, cũng như sinh khối từ nông nghiệp và lâm nghiệp. Tuy nhiên, quá trình phát triển năng lượng tái tạo trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn: cơ chế chính sách thiếu ổn định, hạ tầng truyền tải chưa đồng bộ, chi phí lưu trữ năng lượng cao, thị trường điện cạnh tranh chưa hoàn thiện, và khả năng huy động vốn dài hạn còn hạn chế”.

Do đó, việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển năng lượng tái tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những bài học từ các quốc gia và khu vực đi trước sẽ giúp Việt Nam nhận diện rõ các yếu tố thành công, tránh những sai lầm tốn kém, và xây dựng chiến lược phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, tài nguyên thiên nhiên và trình độ công nghệ của đất nước.

Kinh nghiệm trong phát triển năng lượng tái tạo của một số quốc gia châu Á

ThS. Lê Thị Thùy Dung cho biết, kinh nghiệm từ một số quốc gia châu Á đem lại nhiều gợi mở quan trọng cho Việt Nam. Trung Quốc là ví dụ điển hình. Quốc gia này đã xây dựng khung pháp lý chặt chẽ cho ngành điện, nổi bật là Luật Điện lực (ban hành năm 1995, sửa đổi năm 2022), Luật Năng lượng tái tạo (ban hành năm 2005, sửa đổi năm 2009) và Luật Năng lượng mới (ban hành năm 2024, có hiệu lực từ năm 2025). Các văn bản này đặt nền móng pháp lý vững chắc, tạo cơ chế ưu đãi về thuế, kết nối lưới, quỹ phát triển và tiêu chuẩn tiêu thụ.

Bên cạnh đó, Trung Quốc lập quy hoạch phát triển theo từng giai đoạn. Trước năm 2015, quốc gia này tập trung xây dựng nền móng, đưa tỷ lệ năng lượng tái tạo từ 11% lên 15%.
Giai đoạn 2016-2020 đẩy mạnh truyền tải điện liên vùng, giảm tỷ trọng than trong cơ cấu điện. Từ năm 2021-2025, mục tiêu được điều chỉnh theo hướng phát triển điện mặt trời và gió song song với bảo vệ môi trường và bảo đảm an ninh năng lượng. Chính nhờ chiến lược bài bản, Trung Quốc hiện là quốc gia dẫn đầu thế giới về năng lượng sạch.

Ở Nhật Bản, một cường quốc công nghệ, chính phủ xác định rõ mục tiêu cắt giảm 46% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với 2013 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Nhật Bản đặt kế hoạch để năng lượng tái tạo chiếm từ 36 đến 38% cơ cấu điện vào năm 2030.

Để đạt được điều đó, Chính phủ hỗ trợ các hộ gia đình thông qua chương trình cho vay ưu đãi khi lắp đặt điện mặt trời, đồng thời áp dụng cơ chế giá điện hỗ trợ (FIT) để khuyến khích đầu tư. Các chính sách cải cách thuế nhằm loại bỏ trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, kết hợp với việc gia tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ năng lượng mới. Nhật Bản cũng tiến hành cải cách pháp lý nhằm khuyến khích khu vực tư nhân tham gia, phân tán hệ thống năng lượng và không ngừng nâng cao nhận thức cộng đồng thông qua giáo dục và truyền thông.

Malaysia xác định năng lượng tái tạo là một trụ cột quan trọng trong chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Năm 2011, nước này ban hành Đạo luật Năng lượng tái tạo, áp dụng cơ chế FIT cho các dự án điện mặt trời, thủy điện nhỏ, sinh khối và khí từ bãi rác. Chính phủ lập Quỹ Năng lượng tái tạo được tài trợ từ khoản phụ thu trên hóa đơn điện.

Ngoài ra, Malaysia còn miễn giảm thuế nhập khẩu đối với thiết bị năng lượng tái tạo, khuyến khích hợp tác công - tư, đồng thời tích cực thu hút vốn đầu tư quốc tế. Một điểm mạnh khác là Malaysia chú trọng đào tạo nhân lực, đưa nội dung năng lượng sạch vào chương trình giáo dục và hợp tác chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nhiều bài học gợi mở cho Việt Nam

Từ kinh nghiệm phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc, Nhật Bản và Malaysia, ThS. Lê Thị Thùy Dung chỉ ra rằng, Việt Nam cần ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo ở nông thôn, miền núi và hải đảo, nơi lưới điện quốc gia chưa hoàn thiện. Các dự án điện mặt trời, gió hay sinh khối quy mô vừa và nhỏ sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu tại chỗ, cải thiện đời sống và sản xuất của người dân. Bên cạnh đó, quy hoạch năng lượng phải gắn liền với định hướng phát triển kinh tế - xã hội, tránh đầu tư manh mún, đồng thời khai thác hợp lý nguồn lực tự nhiên như nắng, gió và thủy triều gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

Một yếu tố then chốt là đầu tư vào hạ tầng truyền tải và lưới điện thông minh nhằm giải quyết tình trạng nhiều dự án tái tạo hoàn thành nhưng chưa thể hòa lưới hiệu quả. Đồng thời, Việt Nam cần ban hành khung pháp lý toàn diện và ổn định, trước hết là Luật Năng lượng tái tạo, cùng với cơ chế giá điện minh bạch theo hướng đấu thầu cạnh tranh hoặc FIT. Các chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng xanh sẽ tạo niềm tin lâu dài cho nhà đầu tư.

Trong quá trình phát triển, việc thu hút vốn quốc tế và chuyển giao công nghệ là cần thiết nhưng cũng phải kiểm soát chặt chẽ để tránh tình trạng tiếp nhận công nghệ lạc hậu. Quy định rõ thẩm quyền trong việc khảo sát và cấp phép các dự án điện gió, điện mặt trời, đặc biệt là các dự án trên biển, cần gắn chặt với quy hoạch không gian. Song song với đó là việc nâng cao nhận thức cộng đồng để người dân và doanh nghiệp hiểu rõ lợi ích dài hạn của năng lượng tái tạo, từ đó chủ động tham gia và ủng hộ các chính sách.

Một khía cạnh quan trọng khác là phát triển nguồn nhân lực và mở rộng hợp tác quốc tế. Việt Nam cần tăng cường liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước để đào tạo kỹ sư, chuyên gia có tay nghề cao, đồng thời tiếp cận những tiêu chuẩn tiên tiến của thế giới.

Phát triển năng lượng tái tạo không chỉ là xu thế toàn cầu mà còn là con đường tất yếu để Việt Nam thực hiện cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong công tác quy hoạch và pháp lý, Nhật Bản trong việc hỗ trợ tài chính và công nghệ, cũng như Malaysia trong cơ chế FIT và đào tạo nhân lực đều là những bài học quý báu.

Nếu có chiến lược phù hợp, kết hợp đồng bộ giữa chính sách, hạ tầng, nguồn vốn và nhận thức xã hội, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm sáng về năng lượng xanh trong khu vực, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và xây dựng nền kinh tế bền vững.

Phương Cúc
Bình luận