Trong những năm gần đây, công nghệ sinh học đang trở thành một trong những trụ cột quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong ngành công thương. Tại Đại học Bách khoa Hà Nội, nhiều đề tài nghiên cứu và dự án hợp tác với Bộ Công Thương đã được triển khai, tập trung vào bảo quản, chế biến nông thủy sản, sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Những nỗ lực này không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp mà còn góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hiện đại.
Để hiểu rõ hơn vấn đề trên, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi cùng Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn, Hiệu trưởng Trường Hóa và Khoa học sự sống (Đại học Bách khoa Hà Nội).
- Thưa Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn, thời gian qua Đại học Bách Khoa Hà Nội đã phối hợp với Bộ Công Thương triển khai những nghiên cứu công nghệ sinh học nào, và các nghiên cứu này đã đạt được những kết quả gì đáng chú ý với ngành công thương?
Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn: Trường Hoá và Khoa học Sự sống (được thành lập từ tháng 3/2023 trên cơ sở sáp nhập sáp nhập 4 viện gồm: Viện Kỹ thuật Hóa học, Viện Công nghệ Sinh học & Công nghệ Thực phẩm, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Viện Nghiên cứu và Phát triển ứng dụng các hợp chất thiên nhiên) đã phối hợp với Bộ Công Thương triển khai các đề tài, dự án tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo quản, chế biến nông sản và thủy, hải sản thuộc đề án “Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đến năm 2020” theo quyết định số 14/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Đại học Bách khoa Hà Nội đã triển khai nhiều nghiên cứu công nghệ sinh học phục vụ ngành công thương. Ảnh minh họa
Các kết quả chính tập trung nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thủy hải sản thông qua nghiên cứu, phát triển và ứng dụng một số công nghệ chế biến như sản xuất surimi và các sản phẩm surimi từ cá nước ngọt, sản xuất xúc xích lên men, sản xuất cồn tiết kiệm năng lượng từ sắn, sản xuất chế phẩm CoQ10 từ Agrobacterium tumefaciens tái tổ hợp và Pectic oligosaccharide (POS) để sản xuất thực phẩm chức năng.
Các đề tài dự án đều được doanh nghiệp tham gia và đối ứng kinh phí để triển khai và tiếp nhận chuyển giao công nghệ để ứng dụng vào thực tế mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Ngoài ra các đề tài dự án này cũng góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ) đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động về lĩnh vực công nghệ sinh học.
- Với các nghiên cứu về công nghệ sinh học, Đại học Bách khoa Hà Nội có kế hoạch gì để chuyển giao công nghệ và hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất thực tế, thưa phó giáo sư?
Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn: Đại học Bách khoa Hà Nội đang triển khai đồng bộ các giải pháp và nhiệm vụ sau:
Đầu tư xây dựng Trung tâm đổi mới sáng tạo của Đại học Bách khoa Hà Nội và phát triển thành Trung tâm đổi mới sáng tạo của Thủ đô Hà Nội.
Phát triển các viện nghiên cứu liên ngành và phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, ưu tiên lĩnh vực công nghệ và công nghiệp chiến lược, công nghệ lõi, công nghệ số trong đó có công nghệ sinh học.
Phát triển các chương trình đào tạo tài năng và chuyên sâu ở trình độ đại học và sau đại học, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao của Thủ đô Hà Nội, vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước về công nghệ sinh học.
Cùng với đó là phát triển các chương trình đào tạo kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ (ưu tiên giảng dạy bằng tiếng Anh), tập trung vào các ngành công nghệ và công nghiệp chiến lược đặc biệt là công nghệ sinh học, thông qua hợp tác với các cơ sở giáo dục uy tín quốc tế và các tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu trong và ngoài nước. Đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp trong đó sinh viên được tiếp cập và thực tập, trải nghiệm dài hạn trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ để hỗ trợ ý tưởng khởi nghiệp, thúc đẩy các dự án khởi nghiệp của giảng viên và sinh viên, có sự tham gia đồng hành của doanh nghiệp
Xây dựng và triển khai các mô hình, giải pháp đột phá nhằm huy động nguồn lực đầu tư, ươm tạo sản phẩm nghiên cứu, thương mại hóa tài sản trí tuệ, thành lập các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (start-up) và doanh nghiệp công nghệ khởi nguồn (spin-off).
- Nhà trường đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất công nghiệp, thưa phó giáo sư?
Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn: Công nghệ mới là tập hợp các tri thức, kỹ thuật, phương pháp hoặc thiết bị mới được tạo ra hoặc mới được ứng dụng, có khả năng thay thế hoặc cải tiến các công nghệ cũ, góp phần tạo ra sản phẩm/dịch vụ mới hoặc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Ví dụ như: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), blockchain (công nghệ chuỗi khối), liệu pháp chỉnh sửa gen CRISPR/Cas9, sinh học tổng hợp, vaccine mRNA, robot phẫu thuật, cảm biến sinh học, y học cá thể…
Trong ngành Công nghiệp Sinh học, công nghệ mới có thể giúp: Rút ngắn thời gian nghiên cứu & phát triển (R&D): Các công nghệ như AI, học máy (machine learning) đang được sử dụng để phân tích bộ gen, dự đoán chức năng gen, tối ưu hoá quá trình lên men, chọn giống vi sinh vật hoặc cây trồng hiệu quả hơn. Ví dụ: AI hỗ trợ phát hiện nhanh các ứng viên vaccine hoặc enzyme công nghiệp tiềm năng.
Cùng với đó là tăng cường khả năng sản xuất sinh học quy mô công nghiệp và tạo ra các sản phẩm công nghệ sinh học thế hệ mới: Công nghệ lên men chính xác, sản xuất theo mô hình mô phỏng (digital twin) giúp kiểm soát và tối ưu hoá điều kiện nuôi cấy, từ đó nâng cao năng suất sinh khối và sản phẩm sinh học (enzym, thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe...).
Đáp ứng yêu cầu về an toàn sinh học và truy xuất nguồn gốc: Nhờ ứng dụng công nghệ chuỗi khối (blockchain) hoặc các cảm biến sinh học, có thể kiểm tra và giám sát chuỗi sản xuất từ đầu vào đến đầu ra, đảm bảo truy xuất nguốc và tăng độ tin cậy và an toàn cho người tiêu dùng.
Phó giáo sư Chu Kỳ Sơn: Việc ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất công nghiệp không chỉ giúp ngành Công nghiệp Sinh học phát triển đúng định hướng, mạnh mẽ và nhanh chóng hơn, mà còn tạo ra các giá trị bền vững về mặt kinh tế, môi trường và xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, và nhu cầu về thực phẩm, dược phẩm, năng lượng sinh học tăng cao, việc đầu tư vào công nghệ mới là yếu tố then chốt để ngành công nghệ sinh học giữ vững vai trò tiên phong trong nền kinh tế tri thức.