06:00 | 30/12/2024
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Trong quá trình triển khai thi hành Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) năm 2013 cho thấy pháp luật hiện hành có một số nội dung chưa phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn nhằm phát triển KH&CN, kinh tế - xã hội.
![]() |
Phiên họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập về dự án Luật KH,CN&ĐMST |
Cụ thể, nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội với mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao và yếu tố động lực của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) ngày càng rõ nét đòi hỏi nhà nước cần có các cơ chế, chính sách phục vụ cho mục đích này. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định đủ cơ chế thu hút, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho KH,CN&ĐMST.
Bên cạnh đó, các tác động của hội nhập sâu rộng và toàn diện của Việt Nam trong một thế giới phát triển mạnh mẽ, đột biến, nhất là về KH,CN&ĐMST đòi hỏi các hành lang pháp lý; cơ chế chính sách phải được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn; các làn sóng công nghệ mới phát triển nhanh chóng, mãnh liệt đòi hỏi Chính phủ các nước phải luôn sẵn sàng điều chỉnh chính sách và thích ứng kịp thời.
Luật KH&CN 2013 cũng đang tồn tại những quy định chưa phù hợp. Ví dụ, vấn đề giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì theo cơ chế tự động: Nghị quyết Trung ương 20-NQ/TW và Luật KH&CN 2013 đã có quy định về trao quyền sở hữu kết quả KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì. Tuy nhiên, các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật KH&CN 2013 những năm qua yêu cầu phải thông qua cơ chế xin phép đại diện chủ sở hữu nhà nước là Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố.
Hay, vấn đề đặt hàng nhiệm vụ KH&CN từ các Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố gắn với trách nhiệm triển khai ứng dụng các kết quả KH&CN chưa phù hợp vì không phải kết quả nào cũng có thể ứng dụng ngay mà phải trải qua quá trình hoàn thiện thành sản phẩm để có đủ điều kiện đưa ra thị trường. Đồng thời, doanh nghiệp là chủ thể trung tâm và chủ đạo trong ứng dụng các kết quả KH&CN, biến các kết quả này trở thành sản phẩm, hàng hóa có giá trị gia tăng, tạo ra của cải, vật chất cho xã hội.
Vấn đề phân cấp, phân quyền trong quản lý hoạt động KH&CN (trao quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN công lập; phân cấp quản lý các chương trình KH&CN quốc gia giữa Bộ KH&CN và các bộ chuyên ngành; giữa Trung ương và địa phương; giữa các nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ, cấp cơ sở ở viện nghiên cứu/trường đại học) cần được quy định rõ ràng về quyền và trách nhiệm; tập trung rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong triển khai nhiệm vụ KH&CN.
Trước thực tiễn đó, dự thảo Luật KH,CN&ĐMST đã đưa ra những quy định quan trọng và thiết thực nhằm phát triển một hệ thống KH,CN&ĐMST mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Đây là bước đi quyết định giúp Việt Nam không chỉ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tri thức toàn cầu mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong tương lai.
Tại phiên họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập về Luật KH,CN&ĐMST mới đây, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy nhấn mạnh một số điểm mới nổi bật trong Luật KH,CN&ĐMST như: Bổ sung quy định về tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập đặc biệt hoạt động trong các lĩnh vực nhà nước ưu tiên đầu tư, bổ sung quy định về cơ chế tự chủ đối với tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập.
Bổ sung quy định cá nhân hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ trong tổ chức KH&CN công lập được tham gia thành lập, điều hành doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu do tổ chức KH&CN mà mình là thành viên tạo ra.
![]() |
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu tại phiên họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập về dự án Luật KH,CN&ĐMST |
Đáng chú ý, đơn giản hóa các bước phê duyệt nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước, giảm thời gian phê duyệt nhiệm vụ (đề xuất, xác định, tuyển chọn…) theo hướng giảm tải thời gian xét duyệt, yêu cầu, hồ sơ; quy định rõ hai nội dung chương trình KH&CN và nhiệm vụ KH&CN, làm rõ các loại nhiệm vụ KH&CN và kết quả của từng loại nhiệm vụ KH&CN
Cùng với đó, bổ sung quy định về cụm nhiệm vụ KH&CN, chuỗi nhiệm vụ KH&CN, cách thức xét chọn nhiệm vụ; bổ sung về nguyên tắc chính sách thuế đối với hoạt động KHCN&ĐMST để làm căn cứ đề xuất các ưu đãi cụ thể trong các luật về thuế; bổ sung quy định về các cụm, khu nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo tập trung và các chính sách ưu đãi đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong khu vực này; làm rõ các hoạt động nghiên cứu, phát triển trong doanh nghiệp và các nội dung chi cho hoạt động nghiên cứu, phát triển của doanh nghiệp...
"Theo đó, dự án Luật sẽ thiết lập các hành lang pháp lý đầy đủ để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, đồng thời, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, cộng đồng và trong các cơ quan quản lý nhà nước. Những quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi, ưu đãi nhằm thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST" - Thứ trưởng Bùi Thế Duy nhấn mạnh.
Chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp nói gì?
Chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương, Tiến sĩ Phan Đăng Phong, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí bày tỏ, chúng tôi rất kỳ vọng Luật KH,CN&ĐMST với việc thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KH,CN&ĐMST; cập nhật những vấn đề mới của KH&CN trong nước và thế giới; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai thi hành Luật KH&CN năm 2013… sẽ tạo ra một hành lang pháp lý mới, tạo điều kiện phát triển và khuyến khích hoạt động KH,CN&ĐMST.
Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh, an toàn cho quốc gia, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân; đưa KH,CN&ĐMST thực sự trở thành động lực để hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tế hiện nay đòi hỏi phải điều chỉnh hành lang pháp lý, cơ chế chính sách KH&CN cần thích ứng, kịp thời, phù hợp khi Việt Nam hội nhập, nhất là các làn sóng công nghệ mới phát triển nhanh chóng như: Trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, công nghệ Internet kết nối vạn vật… Bên cạnh đó, cần tạo cơ chế hấp dẫn thu hút, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho KH,CN&ĐMST; phát huy hơn nữa tính tự chủ, vai trò của các tổ chức KH&CN công lập.
![]() |
Tiến sĩ Phan Đăng Phong, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí |
"Điều chúng tôi mong mỏi là cần có chính sách tạo thị trường cho đơn vị nghiên cứu trong nước, khuyến khích sử dụng sản phẩm công nghệ được tạo ra tại Việt Nam. Đồng thời, xây dựng các cơ chế ưu đãi có thời hạn đối với các dự án sử dụng các sản phẩm KH&CN được nghiên cứu trong nước thành công nhằm khuyến khích các chủ đầu tư sử dụng kết quả nghiên cứu" - Tiến sĩ Phan Đăng Phong nói.
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước, việc quy định các đề tài khi đăng ký thực hiện phải có cam kết ứng dụng từ một nhà đầu tư khi sản phẩm hoàn thành còn “máy móc”. Vì thực tế khi các đơn vị làm nghiên cứu có thể thất bại hoặc thành công. Như vậy, tạo rủi ro cho các nhà đầu tư khi cam kết sẽ sử dụng sản phẩm.
"Do đó, cần bỏ quy định phải có cam kết địa chỉ ứng dụng khi đăng ký đề tài mà quy định trong hợp đồng nghiên cứu KH&CN sẽ chỉ nghiệm thu đề tài khi đã được ứng dụng tại một địa chỉ cụ thể đáp ứng yêu cầu đề ra" - Tiến sĩ Phan Đăng Phong đề xuất.
Về dự thảo Luật KH,CN&ĐMST, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Nguyễn Đức Minh đề xuất bổ sung một điều khoản khẳng định vai trò và vị thế mới của KH,CN&ĐMST, coi đây là một quan điểm, nguyên tắc quan trọng trong Luật. Đồng thời, cần nêu rõ tên của các trung tâm, các viện nghiên cứu xuất sắc được thành lập để tập hợp các chuyên gia, các nhà khoa học từ các tổ chức nghiên cứu và phát triển, các cơ sở giáo dục đại học khác đến làm việc kiêm nhiệm nhằm tập trung nghiên cứu và phát triển trong một chủ đề được ưu tiên phát triển.
Ông Phạm Bảo Sơn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, đối với các tổ chức nghiên cứu và phát triển công lập đặc biệt cần có cơ chế chính sách riêng để tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới.
Đại diện Viettel khẳng định, dự thảo Luật sẽ tạo ra cơ chế thông thoáng, giúp đơn giản hóa các quy trình xét duyệt và thực hiện các đề tài KH&CN, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ.
![]() |
Cần khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển cho KH,CN&ĐMST, đặc biệt trong khối doanh nghiệp |
Tại buổi làm việc giữa Bộ KH&CN và Bộ Giáo dục và Đào tạo về dự án Luật KH,CN&ĐMST vừa qua, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn nhấn mạnh, cần làm rõ vai trò và chức năng giữa các viện nghiên cứu và trường đại học để tránh trùng lặp; cần phát triển nghiên cứu ứng dụng kết hợp với đào tạo, chú trọng đến việc liên kết nguồn nhân lực và tài chính cho KH,CN&ĐMST.
Để sử dụng hiệu quả kinh phí hoạt động của các trường đại học, cần thúc đẩy hợp tác và chuyển giao công nghệ, đồng thời thống nhất các quy định về tài sản và tài trợ cho KH&CN. Các nhiệm vụ và chương trình KH&CN cần có sự liên kết giữa nhiều đơn vị và các cơ quan quản lý tài chính. Theo đó, việc đánh giá hiệu quả các chương trình KH&CN và sử dụng kinh phí cần được thực hiện nghiêm túc.
Vấn đề sáp nhập và quản lý nhà nước đối với các quỹ nghiên cứu cần được làm rõ, đặc biệt là việc phân bổ nguồn lực cho các bộ, ngành và các đơn vị nghiên cứu ngoài hệ thống quản lý hiện tại để các tổ chức nghiên cứu thực hiện đúng vai trò của mình và đạt hiệu quả cao trong công tác nghiên cứu và phát triển (R&D).
Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình đào tạo nguồn nhân lực và làm rõ hơn vai trò của đổi mới sáng tạo trong các luật hiện hành; thống nhất quan điểm về quản lý và phát triển đổi mới sáng tạo, nhất là việc sử dụng và quản lý các quỹ hỗ trợ nghiên cứu nhằm thúc đẩy hiệu quả đầu tư vào các trường đại học. Về mặt pháp lý, cần quy định rõ các tổ chức R&D phi thương mại và các cơ chế thuế hỗ trợ, nhằm tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực cho R&D...
Đại biểu Quốc hội Trương Xuân Cừ - đoàn Hà Nội nhận định, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của lực lượng KH&CN, những năm qua, KH&CN đã có những bước tiến tích cực, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội.
![]() |
Đại biểu Trương Xuân Cừ - Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội |
Với các tiến bộ trong cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho tiềm lực và trình độ KH&CN, lực lượng KH&CN đã thực sự đồng hành cùng các cấp, các ngành và địa phương để bám sát thực tiễn, đóng góp ngày càng thiết thực hơn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, việc huy động đầu tư xã hội cho hoạt động KH&CN hiện nay tỷ lệ còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu đề ra. Theo thống kê, khoảng 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động KH&CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước thì đến nay đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước và doanh nghiệp đã tương đối cân bằng với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%. Mặc dù vậy, tỷ lệ này vẫn rất thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, thông thường các quốc gia đều có mức đầu tư xã hội nhiều gấp từ 2 đến 3 lần so với mức đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Ông Cừ phân tích, chúng ta còn thiếu các cơ chế hiệu quả để thúc đẩy doanh nghiệp quan tâm đầu tư cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, đồng thời, năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ của doanh nghiệp còn yếu; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo động lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đẩy mạnh cung - cầu công nghệ.
Các chương trình và nhiệm vụ KH&CN chưa góp phần hình thành các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ lõi; nhiều kết quả KH&CN từ các nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách còn chậm được ứng dụng trong thực tiễn. Theo thống kê, doanh thu mang lại được từ hoạt động khai thác tài sản trí tuệ còn thấp, giá trị hợp đồng mang lại được từ chuyển giao và thương mại hóa sản phẩm chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 30% so với tổng ngân sách dành cho khoa học và công nghệ.
Mặc dù tiềm lực, năng lực và tiềm năng nghiên cứu của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực, nhưng lãng phí về chất xám, tài nguyên này đang rất lớn. Chúng ta chưa có chính sách tạo động lực cho các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm tốt và hỗ trợ họ ứng dụng vào trong đời sống để mang lại lợi ích, hiệu quả đầu tiên cho nhà khoa học, sau đó là các ngành sản xuất.
"Cùng với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia mới được ban hành, tôi mong rằng, dự thảo Luật KH,CN&ĐMST sẽ thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối, chủ trương của Nghị quyết này" - đại biểu Trương Xuân Cừ nêu.
Theo đại biểu Trương Xuân Cừ, dự án Luật KH,CN&ĐMST là đạo luật hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật về KH&CN. Với các cơ chế, chính sách đột phá từ dự thảo Luật sẽ góp phần khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển cho KH,CN&ĐMST, đặc biệt trong khối doanh nghiệp; thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại hóa kết quả KH&CN và phát triển thị trường công nghệ cũng như tạo động lực để nhà khoa học, tổ chức KH&CN không ngừng sáng tạo, thương mại hóa và làm giàu được từ kết quả nghiên cứu.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy cho biết, Bộ KH&CN sẽ tổ chức các buổi làm việc với từng bộ, ngành, lĩnh vực liên quan để làm rõ hơn các nội dung trong dự án Luật KH,CN&ĐMST; đồng thời, khẳng định sẽ tiếp thu tối đa những ý kiến của các đại biểu để hoàn thiện dự thảo Luật, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với thực tiễn. |
Đường dẫn bài viết: https://congthuong.vn/tao-duong-bang-cho-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-cat-canh-bai-3-chinh-sach-duoc-ky-vong-367738.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.