23:45 | 07/01/2023
Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội qua các kỳ đại hội từ 1986 đến nay trên ba phương diện: Tầm quan trọng của chính sách an sinh xã hội; mục tiêu và nhiệm vụ thực hiện an sinh xã hội; phương thức thực hiện mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội; trong bài viết này, tác giả đã khẳng định đây là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng thể hiện quan điểm của Đảng coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển đó theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảm bảo an sinh xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là một nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước. 25 năm đổi mới, cùng với những thành tựu trong đổi mới kinh tế - xã hội, đường lối lãnh đạo của Đảng về xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội cũng có nhiều đổi mới về mục tiêu, nội dung và phương thức thực hiện theo hướng ngày càng toàn diện và hiệu quả hơn. Điều này đã được thể hiện rõ trong các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ đại hội. Do vậy, việc tổng kết lại những quan điểm của Đảng ta về đảm bảo an sinh xã hội trong những năm đổi mới vừa qua (từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay) không chỉ có ý nghĩa khái quát một vấn đề lý luận xuyên suốt của Đảng mà quan trọng hơn, nó còn là cơ sở cho việc xây dựng chính sách an sinh xã hội hiệu quả, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1. Về tầm quan trọng của an sinh xã hội trong ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết, nhưng bảo đảm an sinh xã hội vẫn được Đảng xác định là nhiệm vụ thường xuyên và có tầm quan trọng hàng đầu([1]), vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển nhằm phát huy mọi khả năng của con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quan điểm của Đảng, thực hiện tốt an sinh xã hội là để tạo ra tiền đề quan trọng cho sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần củng cố những thành quả trong đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, thường xuyên của nhân dân, tạo lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới. Đảm bảo tốt an sinh xã hội sẽ góp phần tạo ra sự thống nhất giữa đổi mới về kinh tế với đổi mới chính trị, xã hội, tạo sự cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ngay trong những bước đi đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Quan điểm trên đây đã cho thấy sự chuyển hướng và đổi mới quan trọng về đường lối lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực an sinh xã hội. Chính những thành công trong đảm bảo an sinh xã hội đã góp phần tạo ra sự ổn định trong xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua giai đoạn khó khăn nhất để có được những thành tựu vững chắc trong thời kỳ tiếp theo.
Cùng với những thành tựu trong thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, nhận thức về an sinh xã hội cũng tiến thêm một bước mới, khi tại các Đại hội VII và VIII, Đảng ta đã xác định đảm bảo an sinh xã hội là vì con người và là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội thống nhất với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đều nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con người, phục vụ con người. Thực hiện an sinh xã hội góp phần "tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", "tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”.
Với sự khẳng định tầm quan trọng của an sinh xã hội như trên, Đảng ta thẳng thắn thừa nhận, dù chúng ta đã có nhiều chuyển biến tích cực về đời sống vật chất, nhưng kết quả đạt được trong đảm bảo an sinh xã hội còn hạn chế và chưa vững chắc: "đời sống của một bộ phận nhân dân... nhìn chung còn khó khăn"; “một bộ phận không nhỏ nhân dân ta còn sống dưới nhu cầu tối thiểu”; “công tác bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể lực của nhân dân vẫn được duy trì trong điều kiện có nhiều khó khăn”; “đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút”, v.v.. Do vậy, khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tại Đại hội IX, Đảng ta đã nhấn mạnh: Mọi chính sách an sinh xã hội đều phải góp phần “nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”([1]).
Đến Đại hội X, khi tiếp tục đưa chủ trương đảm bảo an sinh xã hội thành định hướng phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”, “càng đi vào phát triển kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân dân”(3).
Có thể nói, trong hơn 25 năm đổi mới, mặc dù đất nước còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho công tác đảm bảo an sinh xã hội. Nhận thức, quan điểm và cơ chế, chính sách phát triển hệ thống an sinh xã hội đã được hoàn thiện qua từng kỳ đại hội của Đảng. Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự thành công của hơn 25 năm đổi mới và đảm bảo an sinh xã hội là mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải luôn chú ý đến chăm lo đời sống nhân dân và phải lấy "lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động của nhân dân” làm nền tảng cho sự ổn định chính trị - xã hội. Đồng thời, phải đảm bảo sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế với đảm bảo tốt an sinh xã hội. Sự thống nhất này phải trở thành mô hình cấu trúc và định hướng của mọi chính sách kinh tế- xã hội. Đây chính là cơ sở lý luận và là đòi hỏi khách quan trong quá trình xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội đa dạng, kịp thời, có độ bao phủ rộng và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
2. Về mục tiêu và nhiệm vụ thực hiện an sinh xã hội
Qua mỗi kỳ đại hội, nhận thức của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội cũng có sự phát triển theo hướng ngày càng đầy đủ, toàn diện và phù hợp với quá trình vận động của đời sống dân sinh.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn, những nhu cầu thiết yếu của người dân không được đáp ứng đầy đủ, nên mục tiêu cấp thiết được Đại hội VI xác định là phải ổn định đời sống kinh tế, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu của xã hội, dần dần ổn định và tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất của nhân dân. Cụ thể là, mọi chính sách an sinh xã hội phải đảm bảo sao cho người dân “ăn đủ no, có thêm dinh dưỡng, mặc đủ ấm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về bảo vệ sức khoẻ và chữa bệnh, đi lại, học hành và hưởng thụ văn hoá, tăng thêm đồ dùng thiết yếu của các gia đình, khắc phục một bước khó khăn về nhà ở”. Hơn nữa, cần phải coi đây vừa là mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là “quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội”(4).
Mục tiêu thực hiện an sinh xã hội được mở rộng thêm một bước mới, khi mà tại Đại hội VII, Đảng ta xác định phải “đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư...”. Đảng và Nhà nước phải quan tâm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu nhất cho nhân dân, như bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt, nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực phẩm, tăng thêm chất dinh dưỡng bữa ăn, cải thiện nhà ở, tăng tiền lương và thu nhập, quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với cách mạng, giúp đỡ người già cô đơn và trẻ mồ côi, những người cơ nhỡ, bất hạnh trong cuộc sống, phấn đấu đến năm 2000 phải giải quyết căn bản những nhu cầu bức xúc của nhân dân: “xoá nạn đói, giảm số người nghèo khổ, giải quyết vấn đề việc làm, bảo đảm các nhu cầu cơ bản, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân”(5).
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), lần đầu tiên Đảng ta chính thức đưa nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội thành một tiêu chí và coi đó là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội: Xây dựng xã hội mà ở đó, người dân có “cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”, “đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”(6). Chính sách an sinh xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người đã được Đảng ta xác định là động lực to lớn để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”.
Không chỉ xác định đảm bảo an sinh xã hội là động lực to lớn, Đảng ta còn coi đó là mục tiêu chiến lược để không chỉ thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà còn hướng tới “thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”(7). Thực hiện thành công các mục tiêu này không chỉ giúp chúng ta giữ vững định hướng chính trị, ổn định đời sống kinh tế - xã hội, mà còn tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Như vậy, có thể nói, đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng ta về một hệ thống an sinh xã hội nhiều tầng, đối tượng bao phủ rộng với trụ cột là bảo hiểm xã hội đã được định hình. Điều này, một mặt, thể hiện nhận thức của Đảng về bản chất của an sinh xã hội ngày càng đầy đủ hơn và hiện đại hơn; mặt khác, cũng hình thành khung lý luận làm kim chỉ nam cho việc xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với mục tiêu và sự phát triển của đất nước trong giai đoạn tiếp theo.
Trong các kỳ Đại hội VIII và IX của Đảng, công tác đảm bảo an sinh xã hội vẫn được xác định với những nội dung cơ bản, như giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất cho nhân dân, v.v.. Nhận thức mới về mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội được Đảng xác định là nâng cao "chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và hội nhập vào cộng đồng quốc tế”(8) và hướng đến sự "phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã`hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc của xã hội; tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền lương; cơ bản xoá đói, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo; chăm sóc tốt người có công;... nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt hơn các chính sách ưu đãi và bảo trợ xã hội để "bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương..., người già không nơi nương tựa, những người tàn tật và những nạn nhân do hậu quả chiến tranh và thiên tai để lại,v.v.” đều được chăm sóc, giúp đỡ(9).
Chủ trương “xây dựng chính sách an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm toàn dân. Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm...” nhằm đạt được mục tiêu cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân tiếp tục được nêu ra tại Đại hội X của Đảng. Các mục tiêu cụ thể vẫn là “chú trọng thực hiện tốt chính sách ưu đãi xã hội; vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội; chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang”(10). ở đây, điểm mới của so với các kỳ đại hội trước là ở chỗ, bên cạnh những nhiệm vụ “truyền thống”, nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội còn phải hướng đến nhiều đối tượng khác, như nông dân, người già, nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, v.v.. Đây chính là cơ sở quan trọng để hình thành một mạng lưới an sinh đồng bộ, có diện bao phủ nhiều đối tượng, ở nhiều khu vực kinh tế - xã hội khác nhau mà Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 – 2020 đang hướng đến.
3. Về phương thức thực hiện mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội
Cùng với sự khẳng định tầm quan trọng của việc đảm bảo an sinh xã hội đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cũng rất chú trọng tìm kiếm mô hình và giải pháp để thực hiện một cách có hiệu quả các mục tiêu đề ra. Ngay từ Đại hội VI, hệ thống các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội đồng bộ và phù hợp đã được đưa ra: Đó là: 1) Thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia (lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu); 2) Thúc đẩy phát triển kinh tế gia đình; 3) Thực hiện chính sách giải quyết việc làm, phân phối theo lao động, v.v.. Đồng thời, Đảng ta chủ trương từng bước xây dựng và thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân; mở rộng và phát triển các công trình sự nghiệp bảo trợ xã hội; tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Phương châm cơ bản để thực hiện các giải pháp này là Nhà nước và nhân dân cùng làm; “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng”(11).
Quá trình triển khai thực hiện các giải pháp trên phải quán triệt nguyên tắc công bằng và bình đẳng trong hưởng thụ; các chính sách an sinh xã hội phải được cập nhật, theo kịp với tình hình phát triển của đất nước, “phải bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người”, được tiến hành theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, phù hợp với từng vùng và tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là những quan điểm xuyên suốt qua các kỳ đại hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Nó là kết quả tổng kết lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này đã góp phần làm cho các chính sách an sinh xã hội luôn mang hơi thở cuộc sống và tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Nhìn chung, các giải pháp và nguyên tắc đảm bảo an sinh xã hội được xác định tại Đại hội VI của Đảng đã thể hiện tinh thần phát triển, vì con người và do vậy, đã nhanh chóng phát huy được hiệu quả, góp phần to lớn vào thành công chung của sự nghiệp đổi mới.(11)
Trong hệ thống các giải pháp đảm bảo an sinh xã hội mà Đại hội VII của Đảng đưa ra đã nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của các hình thức bảo hiểm (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế). Với sự đa dạng về mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội thì phương thức xã hội hoá được coi là cách làm hiệu quả nhất để chia sẻ trách nhiệm giữa Nhà nước, cộng đồng và bản thân các đối tượng thụ hưởng chính sách. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình nước ta và hệ thống an sinh xã hội tiên tiến trên thế giới. Nó cũng cho thấy bước tiến về nhận thức của Đảng trong chủ trương chuyển dần trách nhiệm từ nhà nước là chủ yếu sang việc xã hội hoá các mục tiêu đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt là hoạt động chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng.
Tại Đại hội VIII, mô hình an sinh xã hội có diện bao phủ rộng với trụ cột chính là hệ thống bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội và cứu trợ xã hội đã được định hình tương đối rõ ràng. Nhà nước vẫn tiếp tục thực hiện vai trò “hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng ” và bảo trợ về tài chính cho các chương trình an sinh xã hội. Tuy nhiên, chủ trương xã hội hoá việc thực hiện an sinh xã hội tiếp tục được khẳng định như là một phương thức cơ bản.
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; giải quyết mối quan hệ giữa đảm bảo an sinh xã hội với tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả nhất nhằm: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Đến Đại hội IX, hệ thống giải pháp (cơ chế, chính sách) thực hiện an sinh xã hội đã được định hình và triển khai gần như đầy đủ trong thực tế. Trong đó, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh hệ thống chính sách bảo hiểm và coi bảo hiểm xã hội là trụ cột quan trọng nhất để đảm bảo an sinh xã hội. Với quan điểm này, Đảng ta đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm nâng cao vị trí và vai trò của hệ thống bảo hiểm xã hội, như: mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; cải cách chế độ bảo hiệm xã hội và bảo đảm xã hội; cải cách và tăng cường chất lượng hệ thống bảo hiểm xã hội, cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng nghèo; ban hành Luật Bảo hiểm xã hội; xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp; v.v.. Tại Đại hội X, Đảng ta đã đưa ra chủ trương từng bước “đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm và phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất; tinh thần của người có công ngang bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư”(12).
Tất cả những chính sách an sinh xã hội được Đảng ta đưa ra và lãnh đạo thực hiện từ Đại hội VI đến nay đã góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho công cuộc đổi mới, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Không chỉ thế, những quan điểm lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò, mục tiêu và hệ thống giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trong giai đoạn vừa qua còn trở thành cơ sở lý luận của việc hoạch định và thực hiện chính sách an sinh xã hội của Nhà nước trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.
******************
(*) Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
([1]) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.15.
([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.159.
([1]) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101, 182.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.43.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.247.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.233, 235.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.203.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.104, 301.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.102, 104.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.234.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.216.
Đường dẫn bài viết: https://congthuong.vn/quan-diem-cua-dang-cong-san-viet-nam-ve-thuc-hien-an-sinh-xa-hoi-trong-thoi-ky-doi-moi-236855.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.