Cơ chế nào thu hút doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào tăng trưởng xanh? Doanh nghiệp tư nhân: Tăng cả lượng và chất |
Sáng 10/8, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Viện Konrad Andenauer Stiftung Việt Nam tổ chức Hội thảo đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500).
Phát biểu tại sự kiện, TS. Lương Văn Khôi – Phó giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia cho rằng: Khu vực doanh nghiệp tư nhân ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, hiện khu vực này chiếm khoảng gần 97% doanh nghiệp đang hoạt động và trở thành động lực của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này vẫn đang gặp nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, nền tảng công nghệ kém, đa số khu vực doanh nghiệp này là nhỏ và siêu nhỏ.
Nói về vai trò của doanh nghiệp tư nhân đối với nền kinh tế, ông Florian Constantin Feyerabend - Trưởng đại diện Viện Konrad Andenauer Stiftung Việt Nam cũng cho rằng: Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam được công nhận từ những năm 1990, và ngày càng trở thành một khu vực quan trọng của nền kinh tế. Với 97% doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, khu vực tư nhân đang tuyển dụng 60% lao động đang làm việc và tạo ra khoảng 67% doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp.
Đặc biệt theo ông Florian Constantin Feyerabend, đa số các doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tuy nhiên các doanh nghiệp nằm trong top 500 của khu vực tư nhân vẫn đang đóng vai trò dẫn dắt thị trường, có ảnh hưởng đến nền kinh tế, giúp định hình kinh doanh và đóng góp quan trọng của Việt Nam trong tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, “sức khoẻ” của top 500 doanh nghiệp này đóng góp quan trọng vào khu vực kinh tế tư nhân cũng như tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Viện Konrad Andenauer Stiftung Việt Nam tổ chức Hội thảo đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500) |
Trình bày về báo cáo, TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban, Ban Dự báo Kinh tế ngành và Doanh nghiệp – Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia – cho rằng: Báo cáo 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam dựa trên 3 tiêu chí, bao gồm: Quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu thuần. Chỉ số sử dụng cho xếp hạng là trung bình cộng của thứ hạng trên 3 tiêu chí trên. Cách xếp hạng này khác với các xếp hạng của báo cáo hiện nay của Việt Nam (VNR500) hoặc Fortune500.
Cũng theo báo cáo, tổng quan một số chính sách hiện hành cho thấy từ định hướng, chủ trương đến cơ chế, chính sách, Việt Nam không có sự phân biệt đối xử hoặc chính sách riêng đặc thù cho doanh nghiệp lớn, thậm chí có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, doanh nghiệp lớn vẫn có lợi thế trong việc tiếp cận các nguồn lực như đất đai, cơ hội đầu tư, thị trường tài chính, và cơ hội cung ứng hàng hoá, dịch vụ thông qua các ưu đãi thu hút đầu tư hoặc quy định về điều kiện tham gia đấu thầu, cũng như tiềm lực với các khách hàng xuất khẩu. Những lợi thế này sẽ tạo tiền đề để doanh nghiệp lớn phát triển mạnh hơn.
Mặc dù xuất hiên tại 57/63 tỉnh, thành phố, nhưng VPE500 tập trung ở 2 trung tâm kinh tế lớn là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội với khoảng 50% tổng số, ngoài ra một số địa phương có nhiều khu công nghiệp như Bình Dương, Đồng Nai, Hưng Yên và Ninh Bình. Nhìn chung, VPE500 đang được hình thành dựa trên lợi thế về hạ tầng, nguồn lực và thị trường của các địa phương. VPE500 phân bổ ở hầu hết các ngành kinh tế (18/21 ngành cấp 1), trong đó tập trung nhiều nhất ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, thương mại và xây dựng.
Biểu đồ đóng góp của VPE500 qua từng năm |
Nhóm doanh nghiệp thuộc VPE500 được đánh giá hoạt động vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung trên khía cạnh quy mô và kết quả kinh doanh bình quân cũng như tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và liên kết doanh nghiệp. Trung bình giai đoạn 2016-2019, quy mô lao động và tổng tài sản bình quân của doanh nghiệp thuộc VPE500 cao gấp hơn 83 lần và hơn 132 lần như doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung, doanh thu thuần khoảng 123 lần. Tỷ lệ doanh nghiệp có xuất khẩu lên tới 58% so với 7,73% của các doanh nghiệp tư nhân còn lại.
Nhờ quy mô và kết quả hoạt động vượt trội, nên VPE500 chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng doanh nghiệp nhưng đóng góp lớn vào hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Bình quân giai đoạn 2016-2019, VPE500 chỉ chiếm 0,089% tổng số doanh nghiệp nhưng tạo việc làm cho khoảng 10,4% lao động, chiếm 13% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần.
"Có thể nói, VPE500 có thể coi như lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường và kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp này có thể coi như hàn thử biểu của khu vực doanh nghiệp" - Báo cáo VPE500 thông tin.
Biểu đồ đóng góp của VPE500 trong chế biến, chế tạo của khối doanh nghiệp tư nhân |
Đánh giá cao những đóng góp của doanh nghiệp tư nhân, nhưng báo cáo cũng chỉ rõ, nhóm VPE500 của Việt Nam chưa trở thành lực lượng mạnh như kỳ vọng, chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn đạt được tầm cỡ thế giới. Một số doanh nghiệp tư nhân lớn đã xuất hiện nhưng số lượng chưa nhiều và các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và vừa gặp nhiều trở ngại trong quá trình phát triển.
Trên cơ sở đó, góp ý tại hội thảo, nhóm nghiên cứu và nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, cần thiết có những chính sách cụ thể hơn nữa để xây dựng được một lực lượng các doanh nghiệp tư nhân lớn, phát triển ổn định, chống chịu được các cú sốc lớn từ bên ngoài và làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. Theo đó, các chính sách với doanh nghiệp tư nhân trong thời gian tới cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng không chỉ tạo thuận lợi với doanh nghiệp trong gia nhập thị trường mà còn giúp doanh nghiệp sống sót và tăng trưởng. Đặc biệt cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư để cải tạo năng suất, chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu.
Có chính sách kinh tế thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước, đồng thời nâng cao năng lực doanh nghiệp tham gia mạng lưới sản xuất chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu.
Để khuyến khích khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển, nhóm nghiên cứu khuyến nghị, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích và tạo phong trào để từng địa phương xây dựng được các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu của mình dựa trên những lợi thế địa phương, tạo điều kiện để doanh nghiệp vươn tầm hoạt động trên phạm vi cả nước. |