5 vấn đề và 3 phương án chuyển dịch năng lượng trong các nhà máy nhiệt điện than

Việc chuyển dịch năng lượng trong các nhà máy nhiệt điện than là yêu cầu tất yếu nhằm đáp ứng các cam kết về giảm phát thải, bảo vệ môi trường.

5 vấn đề cần giải quyết khi chuyển dịch năng lượng

Phát biểu tại Hội thảo về chuyển dịch năng lượng ngành than do Chương trình Hỗ trợ năng lượng GIZ tổ chức chiều 20/8, ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation) cho rằng, chuyển dịch năng lượng đã trở thành xu hướng toàn cầu do yếu tố môi trường, điều hoà khí hậu, giảm mức độ phụ thuộc vào năng lượng hoá thạch…

Đối với việc chuyển dịch năng lượng trong các nhà máy nhiệt điện than, hiện có 5 vấn đề mà các quốc gia đang lưu ý giải quyết gồm: Môi trường, lợi ích của người lao động, lợi ích chủ sở hữu, các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống điện và lợi ích của địa phương.

Ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation) phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation) phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Các phương án công nghệ có thể được được xem xét trong quá trình chuyển dịch năng lượng tại nhà máy nhiệt điện than gồm: Sử dụng lại hầu hết hạ tầng, thiết bị; tái sử dụng một phần thiết bị nhà máy, lưới điện và kết hợp xây dựng hạ tầng mới; tái sử dụng hệ thống hạ tầng và công trình hiện có như nhà xưởng, kho bãi; tái sử dụng đấu nối lưới điện hiện có với hạ tầng mới xây dựng. Phương án cuối cùng là dừng nhà máy, tháo dỡ toàn bộ, trả lại mặt bằng.

Cũng theo ông Nguyễn Anh Dũng, dù lựa chọn phương thức nào, vấn đề quan trọng là phải có các đánh giá mang tính chi tiết thực tế, đảm bảo hiệu quả quá trình chuyển dịch năng lượng than theo xu hướng mới.

Tại hội thảo, ông Lê Văn Hoàng, Cố vấn năng lượng của Dự án Case for Southeast Asia cũng đã chia sẻ thông tin nghiên cứu về thực trạng chuyển dịch năng lượng tại các nhà máy nhiệt điện than.

Theo đó, ở giai đoạn trước năm 2022, nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn (xấp xỉ 50%) nhưng các dạng năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió đã bắt đầu bùng nổ. Tới giai đoạn từ 2022-2025, xu hướng chính là giảm nhiệt điện than, không xây mới nhiệt điện than, tiến hành chuyển đổi nhiệt điện than sang sử dụng khí LNG/hydrogen, mở rộng năng lượng tái tạo.

Đến 2030, nhiệt điện than sẽ chỉ còn tăng xấp xỉ 7 GW (Gigawatt), tỷ trọng than giảm dần, năng lượng tái tạo xấp xỉ 36%; LNG đóng vai trò trung gian và tiến tới giai đoạn chuẩn bị sử dụng điện hạt nhân. Giai đoạn 2045-2050, nhiệt điện than giảm xuống xấp xỉ 3,5%, năng lượng tái tạo chiếm xấp xỉ 74%, tỷ lệ điện khí và hạt nhân tăng dần, đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Ông Lê Văn Hoàng, Cố vấn năng lượng của Dự án Case Southeast Asia chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Ông Lê Văn Hoàng, Cố vấn năng lượng của Dự án Case Southeast Asia chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Tuy nhiên, theo chuyên gia này, quá trình chuyển dịch năng lượng tại các nhà máy nhiệt điện than đang gặp một số thách thức và khó khăn trong quá trình thực thi. Đầu tiên là việc một số công nghệ chưa được hoàn thiện, giá thành đắt đỏ như CCS, đốt kèm NH3 và H2 xanh, công nghệ sản xuất Hydro xanh, công nghệ lò phản ứng hạt nhân nhỏ.

Thêm vào đó, các quy định pháp luật và khung pháp lý cho hoạt động chuyển dịch năng lượng còn thiếu. Quá trình đào tạo nhân sự, tái bảo đảm thu nhập cho lao động trong lĩnh vực khai thác nguyên liệu than là một thách thức lớn đối với doanh nghiệp và cơ quan nhà nước.

3 phương án cho chuyển dịch năng lượng

Chuyên gia Lê Văn Hoàng cho rằng, quá trình chuyển dịch năng lượng tại các nhà máy nhiệt điện than có thể diễn ra theo 3 phương án. Đầu tiên là thực hiện quá trình tái sử dụng. Trong quá trình này, mục tiêu hướng đến là nâng cao tính linh hoạt vận hành của các nhà máy điện than (có tuổi thọ nhỏ hơn 15 năm tuổi), đặt các nhà máy than gần các dự án năng lượng tái tạo.

Song song với đó là sử dụng các biện pháp như đồng đốt than với sinh khối/ammoniac, áp dụng công nghệ CCUS cho các nhà máy điện than.

“Tuy nhiên, phương án này không khuyến nghị sử dụng vì lượng giảm phát thải CO2 còn hạn chế, chi phí cao và những lo ngại về tính bền vững”, ông Lê Văn Hoàng cho hay.

Phương án thứ hai là đưa các nhà máy nhiệt điện than vào dự phòng chiến lược. Khi đó, các nhà máy điện than cũ (15-30 năm tuổi) và kém hiệu quả sẽ được chuyển vào trạng thái dự phòng chiến lược để đảm bảo đủ nguồn cung. Yêu cầu là các nhà máy điện than được dự phòng phải có khả năng cung cấp mức linh hoạt tối thiểu.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Phong Lâm

Phương án thứ ba được tính đến là ngừng hoạt động các nhà máy nhiệt điện than lâu đời nhất (trên 30 năm tuổi), kém hiệu quả nhất và phát thải carbon nhiều nhất. Đồng thời, tái sử dụng các địa điểm nhà máy điện than đã ngừng hoạt động cho các dự án năng lượng tái tạo nếu khả thi.

“Quyết định lựa chọn phương án nào sẽ được tính toán, cân nhắc trên nhiều yếu tố và được đưa ra trên từng nhà máy cụ thể, dựa trên tuổi, đơn vị vận hành và các thông số kinh tế khác”, ông Lê Văn Hoàng nhấn mạnh.

Tại hội thảo, các chuyên gia và khách mời cũng đã thảo luận sôi nổi về thực trạng các nhà máy nhiệt điện than tại Việt Nam, các giải pháp chuyển dịch năng lượng hiệu quả cho các nhà máy nhiệt điện than trong bối cảnh mới và đề xuất các chính sách hỗ trợ, giúp quá trình chuyển dịch năng lượng diễn ra nhanh chóng, hiệu quả.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 266/QĐ-TTg ngày 12/02/2025 về ban hành Kế hoạch thực hiện Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Kế hoạch đặt mục tiêu tổng quát là chủ động tham gia xu thế toàn cầu phát triển carbon thấp; huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển điện lực; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ đốt kèm nhiên liệu sạch để giảm dần phát thải trong các nhà máy nhiệt điện than; đưa ra lộ trình dừng hoạt động các nhà máy nhiệt điện than đã hết đời sống kinh tế, công nghệ cũ.

Đồng thời, đẩy mạnh khai thác và sử dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo cho sản xuất điện, bảo đảm cung cấp đủ điện, ổn định, chất lượng ngày càng cao với giá điện hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, giải pháp toàn diện ứng phó với biến đổi khí hậu và chuyển dịch năng lượng nhằm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Phong Lâm
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận