Xuất khẩu của Việt Nam sẽ ảnh hưởng như thế nào từ chính sách đánh thuế carbon của EU?
Sáng 6/12 tại Hà Nội, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á đã tổ chức hội thảo Đánh giá tác động của cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu (EU) và đề xuất chính sách thuế carbon cho Việt Nam.
Vào tháng 7/2021, EU đã trình đề xuất về quy định thiết lập Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) như một trong những sáng kiến nhằm thúc đẩy việc giảm phát thải khí nhà kính và đạt trung hòa carbon vào năm 2050
Mục tiêu của CBAM là giải quyết nguy cơ rò rỉ carbon do các chính sách khí hậu thiếu chặt chẽ của các quốc gia không thuộc EU, đồng thời bổ trợ cho Cơ chế trao đổi hạn ngạch phát thải của EU (EU-ETS).
Các chứng chỉ CBAM sẽ được cấp cho các nhà nhập khẩu dựa trên cường độ phát thải tích hợp trong sản phẩm mà họ nhập khẩu vào EU và có giá bằng hạn ngạch ETS.
Theo đề xuất ban đầu CBAM sẽ được áp dụng cho một số mặt hàng trong các lĩnh vực: sắt, thép, nhôm, xi măng, phân bón, điện và có khả năng mở rộng ra cả hydro, hóa chất hữu cơ, nhựa và ammonia.
Đề xuất đang ở giai đoạn cuối cùng của quy trình pháp lý khi Hội đồng và Nghị viện EU thông qua vào năm 2022. Giai đoạn chuyển tiếp dự kiến bắt đầu vào năm 2023 và có hiệu lực vào tháng 01/2026.
Mặc dù nhằm mục đích chống biến đổi khí hậu, CBAM do EU đề xuất sẽ ảnh hưởng và tạo thêm chi phí đáng kể đối với các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt nếu cơ chế này được mở rộng sang các lĩnh vực khác trong tương lai.
Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Việt Nam có kế hoạch xây dựng và phát triển thị trường carbon trong nước, bao gồm hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon.
Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ đưa ra lộ trình bao gồm xây dựng khung pháp lý và triển khai thí điểm cơ chế trao đổi tín chỉ carbon từ nay đến năm 2027 (vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2025) và vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon từ năm 2028.
Cùng với cơ chế trao đổi hạn ngạch phát thải thuế carbon được coi là công cụ định giá carbon ở Việt Nam cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để xây dựng một cách hiệu quả, tránh trùng lặp với cơ chế thuế hiện hành và phù hợp với các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết.
Các đại biểu tham gia Hội thảo |
Dự án “Đánh giá tác động của Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu và xây dựng chính sách thuế carbon cho Việt Nam” là một trong những hoạt động trọng điểm nằm trong khuôn khổ hợp tác về chuyển dịch năng lượng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính tại Việt Nam với ETP được nêu trong Biên bản ghi nhớ giữa Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam và Văn phòng dịch vụ dự án của Liên hợp quốc (UNOPS) ký ngày 21/6/2022.
Phát biểu tại hội thảo, bà Sirpa Jarvenpaa – Giám đốc Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) cho biết: “Năm 2021 EU đã đề xuất cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nhằm giảm bớt rò rỉ CO2. Như vậy các quốc gia có sản phẩm xuất khẩu sang EU cần có chính sách định giá carbon để tăng tốc độ giảm phát thải khí nhà kính. Việc thực hiện cơ chế này gặp nhiều khó khăn do mục tiêu chính hướng tới các quốc gia nằm ngoài EU trong đó có Việt Nam. Hội thảo lần này nhằm đánh giá tác động chính sách trên đối với Việt Nam như thế nào trong phát triển kinh tế nói chung và các sản phẩm xuất khẩu sang EU nói riêng đặc biệt là đối với các nghành hàng thí điểm như nói ở trên để từ đó có chính sách thúc đẩy giảm khí nhà kính tại Việt Nam thông qua công cụ thuế đối với các sản phẩm xuất khẩu vào EU của Việt Nam”.
Bà Sirpa Jarvenpaa – Giám đốc Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) |
“Đây là bước đầu tiên, điểm khởi đầu cho mối quan hệ dài hạn cho các đối tác giữa chúng tôi với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Công Thương cũng như các cơ quan hữu quan khác của Việt Nam. Từ đó chúng tôi sẽ tổ chức các cuộc hội thảo với các cơ quan này cũng như với các tổ chức kinh tế, xã hội khác để thu nhận các ý kiến để có thể đưa ra chính sách thuế phù hợp”, bà Sirpa Jarvenpaa cho biết.
Trong khi đó, ông Tăng Thế Cường - Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài Nguyên và Môi trường chia sẻ: “Để đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, ngoài áp dụng công nghệ ít phát thải, nhiều quốc gia áp dụng công cụ định giá carbon. Công cụ định giá carbon phổ biến được áp dụng là thuế carbon, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính, cơ chế tín chỉ carbon (hay cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon). Việc EU áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới CBAM để bảo vệ các doanh nghiệp thuộc EU trước việc hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn từ các quốc gia có tiêu chuẩn về môi trường thấp hơn”.
Ông Tăng Thế Cường- Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu phát biểu tại Hội thảo |
Cũng theo ông Tăng Thế Cường, phạm vi áp dụng cơ chế CBAM sẽ bao gồm các ngành công nghiệp dịch vụ trong Hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính của EU (EU-ETS) để đảm bảo rằng hàng hóa nhập khẩu có phát thải khí nhà kính phải chịu cùng mức giá carbon tương đồng với các hàng hóa nội địa và loại bỏ nhu cầu phân bổ miễn phí thêm hạn ngạch phát thải khí nhà kính trong thị trường.
“EU dự tính sẽ áp dụng CBAM bắt đầu với các sản phẩm dễ tính toán lượng khí nhà kính thải ra trong quá trình sản xuất như là thép, xi măng, nhôm, giấy, hóa chất… Tuy nhiên dự kiến EU sẽ xem xét điều chỉnh, áp dụng phù hợp đối với các sản phẩm có xuất xứ từ các quốc gia đã áp dụng công cụ định giá carbon, có nỗ lực nhằm giảm phát thải khí nhà kính”, ông Tăng Thế Cường cho biết thêm.
Dự án nhằm mục đích đánh giá và tính toán các tác động của CBAM lên các sản phẩm xuất khẩu, chuyển dịch năng lượng, toàn bộ nền kinh tế và việc thực hiện NDC của Việt Nam. Đồng thời, dự án cũng hướng đến phân tích các vấn đề liên quan đến việc hình thành thị trường carbon trong nước và việc xây dựng chính sách thuế carbon ở Việt Nam để đưa ra khuyến nghị nhằm đánh giá tính phù hợp và xây dựng lộ trình, chính sách thuế carbon cho Việt Nam.
Theo đó, các sản phẩm dự án gồm: (1) Báo cáo đánh giá tác động CBAM - đây là một nghiên cứu toàn diện đánh giá và tính toán các tác động của CBAM lên các sản phẩ xuất khẩu, chuyển dịch năng lượng, toàn bộ nền kinh tế và việc thực hiện NDC của Việt Nam; Các khuyến nghị để giảm thiếu tác động tiêu cực và góp phần xây dựng kế hoạch giảm phát thải theo lĩnh vực và phát triển thị trường carbon; (2) Báo cáo nghiên cứu chuyên sâu phân tích các ý nghĩa và cung cấp các khuyến nghị về lộ trình và thiết kế hệ thống thuế carbon tại Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu này sẽ giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công Thương cùng các Bộ, ngành liên quan nắm rõ tác động của Cơ chế CBAM và là căn cứ để đề xuất, ban hành các chính sách kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành hàng xuất khẩu, các ngành xuất khẩu liên quan Cơ chế CBAM đồng thời đề xuất được chính sách lộ trình thuế carbon phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050 của Việt Nam.