Xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo: Cân bằng giữa quản lý và phát triển

Với sự phát triển nhanh của trí tuệ nhân tạo (AI), việc xây dựng Luật AI sẽ tạo hành lang pháp lý rõ ràng, nhưng cần linh hoạt để cân bằng giữa quản lý và phát triển.

Ứng dụng AI ngày càng sâu rộng, cần thiết ban hành luật

Phát biểu tại Hội thảo Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ; Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức, diễn ra vào chiều 15/10, bà Trần Vũ Hà Minh - Cố vấn Trưởng về trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm (FPT Software) cho biết: Việt Nam hiện đang trong giai đoạn khởi đầu xây dựng và ứng dụng trí tuệ nhân tạo, nên có một cơ hội rất lớn để thiết kế hệ thống trí tuệ nhân tạo theo các tiêu chuẩn cao về quản trị và tuân thủ ngay từ đầu.

Hội thảo Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) do VCCI phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ; Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức vào chiều ngày 15/10. Ảnh: NH

Hội thảo Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (AI) do VCCI phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ; Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức vào chiều ngày 15/10. Ảnh: NH

Bà Trần Vũ Hà Minh nêu ví dụ, theo AWS - nền tảng điện toán đám mây lớn nhất thế giới do Amazon cung cấp, trong năm 2024 có khoảng 47.000 doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tương đương hơn 5 doanh nghiệp mỗi giờ, đưa tổng số doanh nghiệp ứng dụng trí tuệ nhân tạo lên đến gần 170.000 doanh nghiệp, chiếm khoảng 18 % tổng số doanh nghiệp cả nước.

Cùng với đó, thị trường chatbot Việt Nam cũng cho thấy tiềm năng tăng trưởng mạnh: Năm 2024, giá trị thị trường chatbot đạt khoảng 31,2 triệu USD, và được dự báo sẽ tăng lên 207,1 triệu USD vào năm 2033 với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 18,50 %.

Chia sẻ tại hội thảo, các chuyên gia cũng cho rằng, ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào hoạt động sản xuất kinh doanh, công việc đã có sự phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, góp phần quan trọng tạo bước phát triển đột phá về năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế và nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.

Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, nhiều ý kiến cũng cho rằng việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo cũng tiềm ẩn những rủi ro. Và để hạn chế những rủi ro đó, đồng thời xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì soạn thảo dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, dự kiến dự thảo sẽ trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 10, diễn ra vào tháng 10/2025.

Theo ông Trần Văn Khải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội: Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển của đất nước, dân tộc trong thời đại số. Bởi trí tuệ nhân tạo là công nghệ và những đột phá của cách mạng công nghiệp, trí tuệ nhân tạo cũng đóng vai trò then chốt trong chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tuy nhiên, cũng theo ông Trần Văn Khải, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến chính sách pháp lý, đạo đức và sự an toàn, đòi hỏi cần phải có hành lang pháp lý rõ ràng, nên việc xây dựng dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo đóng vai trò quan trọng.

Ông Trần Văn Trí - Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Luật Việt Nam. Ảnh: NH

Ông Trần Văn Trí - Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Luật Việt Nam. Ảnh: NH

Cần linh hoạt để thuận lợi ứng dụng vào thực tiễn

Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Văn Trí - Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Luật Việt Nam đánh giá cao việc xây dựng dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo. Nếu được thông qua, đây sẽ là khung pháp lý cần thiết cho hoạt động ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Cũng theo ông Trần Văn Trí, dự thảo đã thể hiện khá toàn diện các quy định về các hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan; quản lý nhà nước đối với hệ thống trí tuệ nhân tạo.

“Dự thảo Luật AI đã nhấn mạnh nguyên tắc trách nhiệm và kiểm soát của con người tại khoản 1 Điều 4, trong đó con người phải giữ quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm cuối cùng đối với mọi quyết định, hành vi và hậu quả phát sinh trong quá trình thiết kế, phát triển, triển khai và sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo" - ông Trần Văn Trí nêu và cho rằng: Rất vui khi dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo đã có quy định về chính sách phát triển hệ sinh thái và thị trường trí tuệ nhân tạo tại Điều 32, trong đó có nhiều chính sách ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng đối với doanh nghiệp tham gia thị trường trí tuệ nhân tạo.

Tuy nhiên, dưới góc độ doanh nghiệp, ông Trần Văn Trí cũng bày tỏ mong đợi, luật đưa ra những quy định cụ thể hơn về một số nội dung. Cụ thể như, đề xuất quy định rõ về quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, công nghệ, tác phẩm và dữ liệu liên quan đến trí tuệ nhân tạo.

Bởi “tại khoản 4 Điều 6 chỉ quy định chung chung là áp dụng theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, đặc thù của các sáng chế, công nghệ và tác phẩm, dữ liệu về trí tuệ nhân tạo là có rất nhiều bên tham gia cùng, gồm nhà cung cấp, nhà phát triển, nhà triển khai. Vậy ranh giới về quyền sở hữu trí tuệ nhân tạo của từng bên như thế nào?” - ông Trần Văn Trí nêu.

Góp ý xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo, bà Trần Vũ Hà Minh cho rằng, Khoản 1 Điều 13 dự thảo quy định nhà cung cấp, bên nhập khẩu có trách nhiệm tự đánh giá, tự phân loại theo tiêu chí do Chính phủ ban hành; lập và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật; chịu trách nhiệm về kết quả tự phân loại.

Các chuyên gia đánh giá sự cần thiết xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo. Ảnh: NH

Các chuyên gia đánh giá sự cần thiết xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo. Ảnh: NH

Theo bà Trần Vũ Hà Minh, quy định này có nguy cơ gia tăng đáng kể gánh nặng tuân thủ, đặc biệt với các đơn vị cung cấp, nội địa hóa nhiều hệ thống AI và mô hình trên phạm vi toàn cầu vì 4 lý do:

Thứ nhất, quy định hiện tại chưa đề cập rõ nghĩa vụ của nhà phát triển hệ thống trí tuệ nhân tạo, trong khi đây là chủ thể quan trọng cần chịu trách nhiệm xuyên suốt vòng đời sản phẩm.

Thứ hai, không đặt ra giới hạn hay cơ chế kiểm soát việc nhập khẩu hệ thống trí tuệ nhân tạo vào Việt Nam, dễ dẫn đến rủi ro đối với thị trường nội địa.

Thứ ba, việc xác định hệ thống có rủi ro cao lại được giao cho nhà cung cấp và bên nhập khẩu tự thực hiện trước khi đánh giá theo tiêu chí Chính phủ ban hành, tiềm ẩn sự thiếu nhất quán.

Thứ tư, khái niệm “tự đánh giá, tự phân loại” và “hồ sơ kỹ thuật” chưa có định nghĩa cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc thực thi và giám sát.

Cũng đánh giá tích cực về Luật Trí tuệ nhân tạo, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký kiêm Trưởng Ban Pháp chế (VCCI) cho rằng, việc xây dựng luật là bước đi quan trọng, thể hiện xu hướng kiến tạo thể chế cho phát triển công nghệ và bảo vệ quyền lợi của người dân.

Tuy nhiên, để Luật Trí tuệ nhân tạo đi vào cuộc sống và đóng góp vào sự phát triển, cần đảm bảo tính linh hoạt và thích ứng trong khung khổ pháp lý. Cùng với đó, cần giảm tối đa rào cản hành chính cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và các startup. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng luật cũng nên kế thừa và dựa trên bài học từ quốc tế.

Ông Trần Văn Khải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội: Luật Trí tuệ nhân tạo cần xây dựng theo hướng vừa quản lý được rủi ro, vừa tạo ra không gian phát triển, đặc biệt luật ra đời cần tìm được điểm cân bằng giữa quản lý và phát triển và tạo không gian thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo.

Nguyễn Hoà
Bình luận

Có thể bạn quan tâm