Xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ từ bài học Cách mạng Tháng Tám

Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám để lại bài học quý: Muốn giữ vững độc lập dân tộc, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thích ứng với mọi biến động toàn cầu.

Kinh tế độc lập, tự chủ thì chính quyền cách mạng mới vững

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu sự kết thúc ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho đất nước.

Thắng lợi này không chỉ mang ý nghĩa chính trị to lớn, mà còn để lại một kho tàng kinh nghiệm vô giá trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, có việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu tham quan Triển lãm thành tựu đất nước nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9 diễn ra từ 28/8 - 5/9 tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia (Hà Nội). Ảnh: LC

Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các đại biểu tham quan Triển lãm thành tựu đất nước nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9 diễn ra từ 28/8 - 5/9 tại Trung tâm Triển lãm Quốc gia (Hà Nội). Ảnh: LC

Trong bối cảnh thế giới hiện nay đang đối mặt với những biến động phức tạp về kinh tế, chính trị, an ninh và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nghiên cứu, luận giải và vận dụng sáng tạo những bài học lịch sử từ Cách mạng Tháng Tám về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Đây không chỉ là nhiệm vụ mang ý nghĩa lý luận sâu sắc mà còn có giá trị thực tiễn to lớn, góp phần củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, nâng cao vị thế và tiềm lực đất nước, đồng thời ứng phó hiệu quả với các thách thức từ bên ngoài.

Trước Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế bị kìm hãm nặng nề. Thực dân Pháp biến nước ta thành nơi cung cấp nguyên liệu rẻ và thị trường tiêu thụ độc quyền. Ruộng đất chủ yếu tập trung trong tay địa chủ, tư bản Pháp, nông dân bị bần cùng hóa, canh tác lạc hậu, dẫn đến nạn đói Ất Dậu 1945 cướp đi hơn hai triệu sinh mạng. Công nghiệp hầu như không phát triển, chỉ có khai thác than, thiếc, kẽm phục vụ chính quốc. Công nghiệp nhẹ manh mún, phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc, công nghệ, vốn nước ngoài.

Thương nghiệp, tài chính và các ngành trọng yếu như muối, đường sắt, cảng biển... đều bị độc quyền. Hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước chỉ manh mún tại đô thị phục vụ khai thác. Đặc biệt, trong chiến tranh thế giới thứ hai, dưới ách vơ vét của phát xít Nhật và chính sách “vườn không nhà trống”, nhiều công trình bị phá hủy, khiến nền kinh tế vốn kiệt quệ càng thêm hoang tàn.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời phải đối mặt với tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” cả về đối nội lẫn đối ngoại. Trong đó, thách thức kinh tế là một trong những mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chính quyền non trẻ.

Lúc bấy giờ, nạn đói và nạn dốt hoành hành khiến hơn 2 triệu người chết đói, hơn 95% dân số mù chữ, gây trở ngại lớn cho việc phổ biến chủ trương, chính sách và nâng cao năng suất lao động xã hội. Ngân sách quốc gia trống rỗng và tài chính kiệt quệ. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngân khố chính quyền chỉ còn vỏn vẹn 1.230.720 đồng bạc Đông Dương, trong đó, có tới 500.000 đồng là tiền rách không còn giá trị.

Nợ công và các khoản chi tiêu do chiến tranh và bộ máy cũ để lại là gánh nặng khổng lồ.Cùng với đó, chúng ta phải đối mặt với sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch.

Không chấp nhận sự ra đời của một Nhà nước độc lập tại Việt Nam, các thế lực đế quốc phong tỏa, cấm vận, trong nước phản động gây rối, phá hoại, đặt ra yêu cầu "sống còn": Phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ để chính quyền cách mạng đứng vững và hoàn thành sứ mệnh lịch sử.

Nếu không có một nền kinh tế vững chắc, độc lập, chính quyền cách mạng sẽ khó lòng đứng vững và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để tạo môi trường đầu tư thuận lợi

Một là, độc lập chính trị là tiền đề và nền tảng không thể thiếu cho độc lập kinh tế

Bài học đầu tiên và mang tính nguyên tắc cốt lõi từ Cách mạng Tháng Tám là sự khẳng định mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời giữa độc lập về chính trị và độc lập về kinh tế.

Lịch sử đã chứng minh rằng, dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, một quốc gia dù có tài nguyên phong phú đến đâu cũng không thể phát triển kinh tế vì lợi ích của chính dân tộc mình. Mọi nỗ lực sản xuất, mọi nguồn lực đều bị kiểm soát, khai thác và chuyển hướng để phục vụ cho lợi ích của mẫu quốc, biến nền kinh tế thuộc địa thành công cụ bóc lột và kìm hãm sự phát triển nội tại.

Chỉ khi giành được độc lập chính trị thông qua thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam mới thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, nắm trong tay quyền tự quyết vận mệnh quốc gia.

Giữ vững độc lập chính trị vẫn là nguyên tắc tối thượng để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế. Ảnh: Thu Hường

Giữ vững độc lập chính trị vẫn là nguyên tắc tối thượng để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế. Ảnh: Thu Hường

Do đó, ngay sau khi thành lập, Chính phủ lâm thời đã nhanh chóng ban hành hàng loạt sắc lệnh, chính sách kinh tế mang tính cách mạng. Đó là việc tịch thu ruộng đất của địa chủ phản động, bãi bỏ các loại thuế vô lý, giảm tô, giảm tức để giảm gánh nặng cho nông dân; thiết lập quan hệ thương mại quốc gia và kiểm soát ngân khố để làm chủ tài chính.

Trong bối cảnh mới, việc giữ vững độc lập chính trị vẫn là nguyên tắc tối thượng để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế. Việt Nam cần tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và ổn định chính trị - xã hội.

Sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút các nguồn lực phát triển, đồng thời là “bức tường thành” vững chắc để ứng phó với mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây rối từ bên ngoài và bên trong, vốn thường nhắm vào việc phá hoại kinh tế để làm suy yếu chế độ.

Chúng ta phải luôn nhận thức rằng, mọi sự đánh đổi độc lập, chủ quyền chính trị để lấy lợi ích kinh tế trước mắt đều sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường về lâu dài, làm mất đi khả năng tự chủ của đất nước.

Hai là, phát huy tối đa nội lực, dựa vào sức mình là chính trong xây dựng, phát triển kinh tế

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng hùng hồn cho vai trò quyết định của nội lực, một bài học cốt lõi cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này. Dù có sự ủng hộ quốc tế và tận dụng thời cơ thuận lợi khi phát xít Nhật suy yếu, nhưng chính Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Sự sáng suốt của Đảng trong việc nhận định “thời - thế - lực”, kết hợp với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đã biến thời cơ bên ngoài thành sức mạnh nội tại.

Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước đối mặt với nạn đói, nạn dốt, tài chính kiệt quệ và sự bao vây, chống phá từ bên ngoài. Trong bối cảnh quốc tế bất lợi, Đảng và Chính phủ xác định con đường duy nhất là dựa vào sức mạnh nội sinh, phát huy tinh thần tự lực, tự cường và sáng tạo của toàn dân. Các phong trào “Diệt giặc đói”, “Bình dân học vụ” đã lan tỏa mạnh mẽ, vừa giải quyết khó khăn cấp bách, vừa khơi dậy ý chí vượt khó, tinh thần đoàn kết và sáng tạo, biến tiềm năng của mỗi người thành sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Bài học lớn rút ra là: Sức mạnh quyết định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nằm ở nội lực tự chủ, ý chí kiên cường và khối đại đoàn kết toàn dân.

Trong giai đoạn hiện nay, phát huy nội lực vẫn là nguyên tắc chiến lược hàng đầu để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Điều này đòi hỏi tập trung vào việc phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, xem đây là động lực chính của tăng trưởng.

Chúng ta cần đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Đồng thời, cần khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần doanh nghiệp, sức sáng tạo và khát vọng làm giàu chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân. Chủ động về nguồn nguyên liệu, công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp phụ trợ là thiết yếu để giảm thiểu sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến lược và quốc phòng.

Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước, bao gồm cả nguồn lực tài chính, đất đai và lao động, là "chìa khóa" để xây dựng một nền kinh tế có khả năng tự chủ cao.

Ba là, một nền kinh tế độc lập, tự chủ luôn phải chú trọng gắn chặt phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Hiểu rõ “độc lập mà dân chết đói, chết rét thì độc lập cũng vô nghĩa”, ngay sau khi giành chính quyền, Chính phủ lâm thời xác định diệt đói, diệt dốt là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Các chính sách cứu đói, giảm thuế, phát chẩn, tăng gia sản xuất được triển khai rộng khắp, cùng với phong trào Bình dân học vụ và các biện pháp y tế phòng dịch. Điều đó cho thấy quan điểm phát triển toàn diện: Kinh tế độc lập không chỉ là tăng trưởng, mà còn gắn với an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Khi nhu cầu cơ bản của dân được đảm bảo, lòng tin và sự đồng thuận xã hội được củng cố, tạo nên sức mạnh toàn dân cho công cuộc xây dựng đất nước. Một nền kinh tế độc lập, tự chủ bền vững phải hài hòa, nhân văn, để mọi người dân đều được hưởng thành quả phát triển.

Hiện nay, việc gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội vẫn là một yêu cầu cốt yếu. Sự hài hòa lợi ích giữa các tầng lớp dân cư, các vùng miền, đặc biệt là việc hỗ trợ các đối tượng yếu thế, vùng sâu, vùng xa, "chìa khóa" để duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế bền vững và tự chủ.

Bốn là, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế để củng cố vững chắc nền kinh tế độc lập, tự chủ

Bài học từ Cách mạng Tháng Tám đã cho thấy, ngay trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” sau khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sớm thể hiện tầm nhìn chiến lược về sự cần thiết của hội nhập và quan hệ đối ngoại. Ngay từ những ngày đầu, Việt Nam đã nỗ lực tiếp xúc, thiết lập quan hệ với các nước để tìm kiếm sự ủng hộ, viện trợ và khẳng định vị thế quốc tế của một quốc gia độc lập.

Tuy nhiên, mọi hoạt động đối ngoại và nỗ lực hội nhập đều tuân thủ nguyên tắc bất di bất dịch: Độc lập, tự chủ và bình đẳng. Việt Nam kiên quyết không chấp nhận bất kỳ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ hay đánh đổi chủ quyền quốc gia. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ chủ động đối thoại với các cường quốc, đồng thời kiên quyết bảo vệ độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đa dạng hóa quan hệ để tránh bị phụ thuộc, là minh chứng rõ nét cho bài học này. Đây chính là tiền đề quan trọng cho tư duy “tích cực hội nhập nhưng không hòa tan” của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn sau.

Việc đa dạng hóa các đối tác kinh tế, không phụ thuộc vào một thị trường hay nguồn cung duy nhất, là chiến lược trọng yếu để đảm bảo an ninh kinh tế

Việc đa dạng hóa các đối tác kinh tế, không phụ thuộc vào một thị trường hay nguồn cung duy nhất, là chiến lược trọng yếu để đảm bảo an ninh kinh tế

Hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục kiên định thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ. Điều này đòi hỏi chủ động và tích cực tham gia vào các thể chế kinh tế khu vực và quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhưng luôn giữ vững lập trường về chủ quyền và lợi ích quốc gia.

Việc đa dạng hóa các đối tác kinh tế, không phụ thuộc vào một thị trường hay nguồn cung duy nhất, là chiến lược trọng yếu để đảm bảo an ninh kinh tế. Đồng thời, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế, chủ động tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu ở những khâu có giá trị gia tăng cao. Trong quá trình hội nhập, phải đặc biệt chú trọng bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, biến nó thành lợi thế cạnh tranh mềm, tránh nguy cơ “hòa tan” về văn hóa và tư tưởng, đảm bảo sự hội nhập phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

80 năm đất nước độc lập, thống nhất, từ một nền kinh tế nông nghiệp thuộc địa, nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh. Việt Nam đã từng bước vượt qua khó khăn, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đang tiến tới xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những thành quả này không chỉ khẳng định con đường phát triển đúng đắn mà còn là nền tảng vững chắc để hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đại tá Phạm Duyên Minh – Chủ nhiệm Khoa Kinh tế chính trị, Trường Sĩ quan chính trị
Bình luận

Có thể bạn quan tâm