Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo Na Uy – Việt Nam về khí LNG do Đại sứ quán Na Uy, Bộ phận thương vụ tại Việt Nam tổ chức sáng ngày 4/11.
Chuyên gia đến từ Na Uy chia sẻ về các giải pháp và công nghệ tiên tiến cho ngành LNG |
Hội thảo là diễn đàn giúp các công ty Na Uy tìm kiếm đối tác trong nước để đầu tư và phát triển các giải pháp và công nghệ tiên tiến cho ngành LNG của Việt Nam, gồm cơ sở thiết bị và các trạm đầu mối LNG, FSRU (tàu vận chuyển và lưu trữ LNG), nhà máy điện LNG nổi, các tàu và thiết bị phân phối LNG quy mô nhỏ, các phương án tài chính khả thi cho dự án LNG… Sự kiện cũng là cơ hội thúc đẩy đối thoại tích cực giữa các nhà sản xuất, nhà tiêu dùng LNG và các bên liên quan, qua đó tăng cường hiểu biết chung về các xu thế của thị trường LNG toàn cầu và tìm hiểu cơ hội hợp tác.
Có xu hướng nhập khẩu LNG
Tại hội thảo, bà Grete Løchen - Đại sứ Na Uy tại Việt Nam - cho rằng, than không phải là năng lượng của tương lai, vì thế chúng ta phải tìm các giải pháp thay thế. Điện gió, điện mặt trời và LNG sẽ là nhiên liệu sạch góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và an ninh môi trường. “LNG đã được coi là 1 trong những phương án thay thế tuyệt vời cho các nhà máy nhiệt điện, vì nó giảm ô nhiễm không khí, giảm phát thải khí CO2 và tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo được đưa vào mạng lưới điện quốc gia” – bà Grete Løchen nhấn mạnh thêm.
Trong khi đó, theo Quy hoạch Điện VII điều chỉnh, trong giai đoạn 2025 - 2030 Việt Nam sẽ cần xây mới các nhà máy điện khí LNG với tổng công suất từ 15.000 - 19.000 MW để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng trong nước. Theo dự báo, sau năm 2020, nguồn cung khí của Việt Nam sẽ giảm do dự trữ khí trong nước giảm và do việc chậm triển khai các mỏ khí mới. Việt Nam cần nhập khẩu thêm LNG để bổ sung nhiên liệu cho các nhà máy điện ở khu vực phía Nam.
Ngoài ra, theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí của Việt Nam đến năm 2025, định hướng tới năm 2035, dự báo giai đoạn 2021-2025, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu 1 - 4 tỷ m3 khí LNG mỗi năm, tăng lên 6-10 tỷ m3 mỗi năm sau đó. Khoảng 75% lượng LNG nhập khẩu sẽ được sử dụng làm nhiên liệu cho các nhà máy điện để đảm bảo an ninh cho ngành kinh tế đang phát triển của Việt Nam.
Vì thế, Chính phủ Việt Nam đang khuyến khích các công ty trong nước và nước ngoài trong lĩnh vực LNG hợp tác với nhau. Điều này khiến thị trường LNG ở Việt Nam trở nên “sôi động” hơn bao giờ hết.
Hội thảo thu hút sự tham dự của doanh nghiệp hai bên |
Theo ông Nguyễn Thanh Hà - Giám đốc điều hành Trung tâm tư vấn công nghệ và đầu tư (Vietbid) - hiện nay, Chính phủ đã đưa ra một số chính sách tạm thời về một số dự án khí, giá điện khí, nhưng chỉ áp dụng cho dự án Sơn Mỹ và Nhơn Trạch.
“Trong tương lai, Chính phủ sẽ đưa ra chính sách riêng cho từng dự án, hoặc xây dựng khung pháp lý chung cho các dự án. Bộ Công Thương rất năng động trong lĩnh vực này” - ông Nguyễn Thanh Hà nhấn mạnh.
Hiện nay, các dự án như Thị Vải, Hải Linh đang thi công. Đặc biệt, dự án Hải Linh – dự án tư nhân kết hợp với xây dựng bể chứa rất sớm, sẽ bắt đầu quá trình phát triển khí và hy vọng cuối năm 2020 sẽ vận hành với sự hợp tác của PVGas. Trong khi đó, dự án Cát Hải, miền Nam và Nam Trung bộ đã phê duyệt trong tổng sơ đồ. Các dự án Cà Ná, Long Sơn, Bạc Liêu đã được chấp nhận bởi Bộ Công Thương và trình lên Thủ tướng để phê chuẩn. Hiện các dự án này đang trong giai đoạn cuối cùng hoàn tất. Còn các dự án khác như Cái Mép, Mỹ Giang, Văn Phong, Tân Phước, Vũng Áng… đang được đề xuất, và đang trong quá trình hợp tác với địa phương và bên tư vấn… Tuy nhiên, tại miền Bắc chưa thấy dự án nào, nhưng với nhu cầu năng lượng tại miền Bắc dự báo tiếp tục tăng cao, chắc chắn sẽ nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư. “Việt Nam có nhiều nhà đầu tư tìm hiểu và tham gia trong lĩnh vực LNG, nhưng chưa có công ty nào của Na Uy”- ông Nguyễn Thanh Hà cho hay.
Tàu vận chuyển và lưu trữ LNG - Giải pháp rút ngắn thời gian đầu tư
Na Uy và Việt Nam là hai nước có đường bờ biển dài và diện tích tương đương nhau. Cả hai đều có ngành công nghiệp dầu khí. Tuy nhiên, trong khi Na Uy là nước xuất khẩu thuần năng lượng, thì Việt Nam đang có xu hướng nhập khẩu thuần năng lượng.
Đi đầu với những giải pháp về LNG, các doanh nghiệp LNG của Na Uy hoạt động ở từng mắt xích trong chuỗi cung ứng, từ sản xuất LNG, tới khí hóa, vận chuyển, và sản xuất điện từ LNG. Đặc biệt, Na Uy là nước đầu tiên trên thế giới phát triển các trạm LNG nổi, vừa hiệu quả về chi phí, tin cậy về giải pháp, và được thi công trong một thời hạn ngắn. Na Uy cũng nổi tiếng với những giải pháp xây dựng tàu quy mô nhỏ để vận chuyển LNG từ trạm tới người dùng cuối trong ngành công nghiệp gồm các nhà máy điện công suất nhỏ, các cơ sở hóa chất, sản xuất phân bón v.v…
“Na Uy là một trong những quốc gia đi đầu với những giải pháp công nghệ cao và thông minh cho toàn chuỗi cung ứng LNG. Các công ty Na Uy có rất nhiều kiến thức, chuyên môn, và công nghệ trong lĩnh vực này và sẵn sàng chuyển giao cũng như chia sẻ với Việt Nam” - Đại sứ Na Uy Grete Løchen khẳng định.
Đề xuất công nghệ Tàu vận chuyển và lưu trữ LNG (FSRUs) với nhiều ưu điểm vượt trội và thích ứng với thị trường Việt Nam, ông Baptiste Debaene – Giám đốc phát triển kinh doanh của Hoegh LNG - cho rằng, đây là công nghệ mới, giúp rút ngắn thời gian đầu tư và Việt Nam có thể tiếp cận thị trường một cách cạnh tranh.
“Để xây kho chứa LNG, sẽ mất cả tỷ USD. Nhưng với FSRU, với tính năng thiết kế, có thể chuyển khí xuống hoặc sử dụng như 1 cảng, tàu chứa; khi không cần FSRU thì có thể yêu cầu chuyển tàu ra khu vực khác. Đây là giải pháp thực tế, với những dự án triển khai nhanh...” - ông Baptiste Debaene nói.
Tuy nhiên, để chuẩn bị tốt cho việc này, ông Baptiste Debaene cho rằng, bên cạnh các khung pháp lý hiện có, Chính phủ cũng nên hài hòa các yếu tố về thuế và nhập khẩu thiết bị cho các dự án về khí thiên nhiên hóa lỏng.
"LNG được coi là nguồn tin cậy, sạch hơn so với than và việc nhập khẩu cũng đảm bảo hỗ trợ cho nguồn năng lượng tái tạo trong thời gian tới" - đại diện Hoegh LNG cho hay.