Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện nghiên cứu Cơ khí (Narime) - Bộ Công Thương xung quanh vấn đề này.
Xin ông chia sẻ một số kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, sản xuất thử nghiệm của Viện những năm gần đây?
Trong những năm qua, với phương châm gắn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Viện Nghiên cứu cơ khí (NCCK) đã có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ lĩnh vực công nghiệp. Nhiều công trình nghiên cứu đã được áp dụng hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp, đặc biệt là những tập đoàn, tổng công ty, góp phần nâng cao năng lực, chất lượng sản xuất và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, cũng như tạo tiền đề để tổ chức chủ trì tiếp tục phát triển nguồn lực nghiên cứu KHCN.
TS. Phan Đăng Phong (ngoài cùng bên phải) tại chương trình chạy thử nghiệm hệ thống cung cấp than Dự án Nhiệt điện Sông Hậu 1 |
Điển hình là trong lĩnh vực tự động hóa phục vụ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Viện NCCK đã tập trung vào hướng nghiên cứu, làm chủ công nghệ các dây chuyền thông minh tại các nhà máy sản xuất ôtô, xe máy, hóa chất. Gần đây, với việc thành công trong việc nghiên cứu và làm chủ công nghệ một số dự án lớn như: Dây chuyền sản xuất tự động, linh hoạt tại LIX - công ty thành viên thuộc Tập đoàn Hóa chất, dây chuyền sản xuất lắp vành xe máy tự động cho Công ty Sản xuất phụ tùng ôtô xe máy Việt Nam, dây chuyền đồ gá hàn rô bốt và lắp ráp cho dòng xe con - SUV và dây chuyền đồ gá hàn và lắp ráp thân vỏ xe BUS điện cho công ty Vinfast. Qua đó, Viện đã từng bước khẳng định mình trong lĩnh vực sản xuất thông minh, góp phần giảm giá thành sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các chủ đầu tư, chủ động thay đổi công nghệ sản xuất khi có yêu cầu phát sinh, tạo việc làm ổn định cho Viện khoảng 200 tỷ đồng/năm riêng trong lĩnh vực này.
Trong lĩnh vực nhiệt điện, bên cạnh thành công của các nhiệm vụ khoa học - công nghệ cấp nhà nước như nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành các hệ thống thiết bị phụ chạy đốt than có công suất tổ máy khoảng 600MW, Viện đã tạo ra được một số sản phẩm truyền thống như hệ thống cung cấp than, hệ thống thải tro xỉ và hệ thống lọc bụi tĩnh điện mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn. Điều này tạo thêm nhiều việc làm cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước, giảm ít nhất 10% giá thành sản phẩm so với thiết bị nhập khẩu cùng loại và giảm nhập siêu hơn 100 triệu USD cho một công trình nhiệt điện than công suất 1.200MW.
Đường ống áp lực cao (890m) tại Thủy điện Đa Nhim mở rộng lần đầu được thực hiện tại Việt Nam bởi Narime |
Trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, đã tham gia thực hiện thành công tổng thầu EPCM cho 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ với công suất thiết kế 2 triệu tấn quặng tinh/năm. Nổi bật, Viện đã thiết kế và chế tạo đồng bộ 2 tuyến băng tải với tổng chiều dài mỗi tuyến 5km cho mỗi nhà máy. Hiện nay, các tuyến băng tải này đã bàn giao đi vào vận hành, đạt yêu cầu và được chủ đầu tư cấp chứng chỉ nghiệm thu đưa vào sử dụng. Từ thành công này, các đơn vị trong nước tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ đã được chủ đầu tư tín nhiệm, tiếp tục giao cho các dự án khác như: Nhà máy Tuyển quặng Bảo Lộc 200.000 tấn/năm, Nhà máy Tuyển Lâm Đồng 1.700.000 tấn/năm, Nhà máy Tuyển quặng Nhân Cơ 1.700.000 tấn/năm...
Với lĩnh vực năng lượng mới và công nghệ cao, đã thành công trong thực hiện trọn gói hệ thống phao nổi và neo Dự án điện mặt trời Đa Mi với tổng công suất 47,5MW, đã phát điện thương mại ngày 1/6/2019. Viện đang xây dựng, triển khai phát triển các sản phẩm công nghệ cao theo hướng công nghệ 4.0, trọng tâm là các dây chuyền sản xuất, kho chứa thông minh tự động hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển chung của các ngành công nghiệp…
Theo ông, đâu là thách thức cho thị trường thiết bị cơ khí của Việt Nam hiện nay?
Về thị trường thiết bị cơ khí trong những năm tới, theo quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp điện, dầu khí, khai thác và chế biến khoáng sản, giấy, sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng mới và năng lượng tái tạo, dung lượng thị trường để phát triển cơ khí còn rất lớn, đặc biệt là dây chuyền thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, hầu hết dây chuyền thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp đang phụ thuộc vào các nhà thầu nước ngoài về công nghệ. Điều này dẫn đến tỷ trọng trong nước thực hiện còn rất thấp, đạt không quá 20%, chủ yếu tập trung ở những sản phẩm đơn giản không tạo ra giá trị thặng dư cao.
Để khắc phục hạn chế này, chúng ta cần xây dựng được chiến lược phát triển của các bộ, ngành trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của quốc gia. Chiến lược của các viện những năm tới cần xây dựng trên cơ sở này, trọng tâm là xây dựng các viện nghiên cứu triển khai đủ mạnh có công nghệ nguồn tương ứng với từng lĩnh vực công nghiệp và đủ khả năng hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội lớn của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ông có thể chia sẻ những hướng đi của Viện trong thời gian tới?
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển Viện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là đơn vị tư vấn độc lập hàng đầu ở Việt Nam, có uy tín trên thị trường quốc tế, đủ năng lực lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật và thiết kế thi công cho các dự án công nghiệp chuyên ngành thuộc thế mạnh của Viện như các dây chuyền chế tạo và lắp ráp cơ khí, nhiệt điện, năng lượng tái tạo, chế biến khoáng sản, hóa chất, xử lý môi trường, các dây chuyền sản xuất thông minh. Viện đủ năng lực làm tổng thầu EPC, EPCM hoặc chìa khoá trao tay cho các hạng mục thiết bị toàn bộ thuộc dự án công nghiệp trong nước thuộc thế mạnh của Viện.
Cùng với việc tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính, con người đủ năng lực làm tổng thầu EPC, EPCM hoặc chìa khóa trao tay..., Viện sẽ tiếp tục đầu tư tập trung, trọng điểm vào các đề tài, dự án KHCN trực tiếp tạo ra các sản phẩm cho các ngành công nghiệp. Đồng thời, tiếp tục đề xuất tới Bộ Công Thương các cơ chế, chính sách, giải pháp để phát triển ngành cơ khí, trọng tâm là cơ chế, chính sách mua và tiếp nhận chuyển giao các công nghệ nguồn tại dây chuyền thiết bị toàn bộ trong các lĩnh vực nhiệt điện, thủy điện, khai thác và chế biến khoáng sản, năng lượng mới và năng lượng tái tạo, hóa chất, thiết bị máy nông nghiệp. Qua đó, góp phần nâng cao tỷ lệ sản xuất trong nước, giảm nhập siêu, hạ giá thành sản phẩm, tạo thêm nhiều việc làm cho ngành cơ khí trong nước.
Xin cảm ơn ông!