Dự án điện gió ngoài khơi Veja Mate được phát triển bởi Copenhagen Infrastructure Partners (CIP). CIP hiện đang hợp tác cùng Asiapetro, Novasia, và Copenhagen Offshore Partners (COP) phát triển dự án điện gió ngoài khơi La Gan có công suất dự kiến 3.5GW tại Tuy Phong, Bình Thuận |
Theo báo cáo 'Lộ trình gió ngoài khơi tại Việt Nam' của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có tiềm năng đạt được công suất gió ngoài khơi từ 11GW đến 25GW cho đến năm 2035, có thể tạo ra tới 700.000 việc làm mỗi năm và giảm thiểu được 217 triệu tấn khí thải CO2. Tốc độ gió tốt được tìm thấy ở xa hơn và dọc theo bờ biển, đặc biệt ở khu vực ngoài khơi tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Việt Nam cũng có công nhân lành nghề ở khu vực ngoài khơi, năng lực sản xuất mạnh mẽ, hạ tầng kỹ thuật dọc các bờ biển cũng đã được quan tâm đầu tư đáng kể.
Điện gió ngoài khơi là một công nghệ đã được chứng minh và giúp giảm chi phí đáng kể ở châu Âu, nơi các dự án điện gió ngoài khơi được thực hiện trên quy mô lớn. Mô hình này cũng cung cấp một nguồn năng lượng với chi phí xây dựng rẻ hơn so với các dạng năng lượng khác như than đá, hạt nhân và khí đốt.
Vậy như thế nào thì được gọi là điện gió ngoài khơi? Các trang trại điện gió ngoài khơi nằm cách bờ biển hơn 5 km trong vùng nước sâu hơn 10m. Các dự án điện gió ngoài khơi sử dụng các tuabin rất lớn (tuabin công nghệ mới nhất có công suất lên tới 14MW) và quy mô lớn hơn (lên đến vài GW). Công suất lớn và khoảng cách đến bờ thường yêu cầu các trạm biến áp và cáp chuyên dụng để vận chuyển điện lên lưới. Các tuabin gió, thiết kế nền móng, phương pháp lắp đặt và chuỗi cung ứng được tùy chỉnh theo các điều kiện ngoài khơi. Gió xa bờ không cùng chuỗi cung ứng với gió thủy triều/gần bờ. Do quy mô lớn, tương đương với một nhà máy điện khí LNG, chi phí đầu tư trang trại điện gió ngoài khơi cao hơn và cần có nguồn tài chính quốc tế.
Điện gió ngoài khơi đang được triển khai tại các thị trường gần Việt Nam như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Điều này sẽ dẫn đến một chuỗi cung ứng hoàn thiện và giảm chi phí trong khu vực châu Á, mà Việt Nam có thể đạt được lợi ích từ đó.
Các chuyên gia quốc tế cho rằng, sự kết hợp giữa các yếu tố luồng gió mạnh, vùng nước nông, các thành phố gần bờ biển, bến cảng hiện có và công nhân lành nghề của Việt Nam là điều kiện lý tưởng cho điện gió ngoài khơi. Việt Nam nắm giữ vị trí độc nhất vô nhị để theo đuổi điện gió ngoài khơi như một nguồn năng lượng an toàn và là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch.
Hiện tại, chưa có trang trại điện gió ngoài khơi nào thực sự được hình thành ở Việt Nam. Phát triển điện gió của Việt Nam tập trung vào các khu vực ven bờ và bãi triều / gần bờ. Đây là những điển hình thường thấy ở một thị trường mới đang trong giai đoạn đầu áp dụng năng lượng gió tái tạo làm nguồn điện, vì các trang trại điện gió trên bờ và bãi triều / gần bờ có quy mô nhỏ, dễ tài trợ hơn và có thời gian phát triển ngắn hơn. Ví dụ, Đan Mạch và Trung Quốc lần đầu tiên bắt đầu phát triển điện gió ở khu vực thủy triều và gần bờ trước khi chuyển sang điện gió ngoài khơi.
Các trang trại gió vùng bãi triều/gần bờ nằm trong khu vực thủy triều hoặc cách bờ biển vài km, nơi nước rất nông. Các dự án điện gió ở khu vực này có xu hướng sử dụng các tuabin nhỏ hơn (mỗi tuabin thường có công suất dưới 4MW), quy mô nhỏ hơn (thường dưới 200 MW) và thường nằm gần lưới điện. Các dự án có thể có nền móng tùy chỉnh nhưng nhìn chung có thiết kế tương tự như các trang trại điện gió trên bờ. Do quy mô nhỏ hơn nên những dự án điện gió ở khu vực này có chi phí đầu tư thấp hơn và có thể được tài trợ tại địa phương. |
Ở các quốc gia khác, động lực chính để di chuyển các dự án điện gió ra xa bờ là chất lượng của gió, không gian sẵn có, quan ngại về môi trường và tránh xung đột với các cộng đồng ven biển và người sử dụng biển.
Tại Việt Nam, gió ngoài khơi cũng mang lại những lợi ích tương tự. Các dự án điện gió ngoài khơi thực sự sẽ ở những khu vực có tốc độ gió cao hơn và ổn định hơn, hướng tới sản xuất năng lượng nhất quán và hiệu quả hơn. ‘Đất’ xa bờ có nhiều hơn ‘đất’ bãi triều/gần bờ - khu vực bị giới hạn bởi thủy triều và độ sâu của nước. Các trang trại gió ngoài khơi có khả năng ít tác động đến môi trường hơn, vì có ít đa dạng sinh học hơn ở các vùng nước sâu hơn. Các trang trại gió ngoài khơi cũng có ít tác động đến thị giác và tiếng ồn hơn, và sẽ ít ảnh hưởng tới những người hoạt động trên biển như vận tải biển, đánh cá và du lịch...
Cho đến nay, sự phát triển của điện gió bãi triều/gần bờ ở Việt Nam đã được thúc đẩy bởi các chính sách của Chính phủ, trong đó có biểu giá cố định (FIT). Tại thời điểm này, không có định nghĩa chính thức hoặc chính sách cụ thể cho các dự án điện gió ngoài khơi thực sự ở Việt Nam. Để điện gió ngoài khơi thành công ở Việt Nam, cần phải có một chính sách chuyên biệt tương tự. Điều này là do các đặc tính của gió ngoài khơi khác hẳn với gió bãi triều/gần bờ và chuỗi cung ứng cần có một bước khởi đầu.
Để khai thác tiềm năng to lớn của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, các nhà phát triển đang kêu gọi Chính phủ đảm bảo cho ngành, điều này sẽ cho phép họ đầu tư phát triển. Chính phủ có thể thực hiện bằng cách thiết lập các mục tiêu về điện gió ngoài khơi cũng như chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi.
Theo Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (Global Wind Energy Council - GWEC), thế giới đang đón nhận điện gió ngoài khơi - công suất gió ngoài khơi toàn cầu sẽ tăng từ 29GW vào năm 2020 lên hơn 234 GW vào năm 2030, dẫn đầu bởi sự tăng trưởng theo cấp số nhân ở Châu Á - Thái Bình Dương và tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ ở Châu Âu. Các quốc gia khác khởi đầu từ chính sách cho điện gió bãi triều/gần bờ như Đan Mạch và Trung Quốc cũng đã hoàn toàn chấp nhận điện gió ngoài khơi. Cũng giống như các thị trường này, Việt Nam có cơ hội tận dụng các điều kiện ven biển, đạt được an ninh về cung cấp năng lượng, tạo việc làm và cung cấp năng lượng điện gió sạch ngoài khơi trong những năm tới.