Vì sao doanh nghiệp phân bón kiến nghị giảm thuế xuất khẩu 5% cho ure? Bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp phân bón |
Kiến nghị áp thuế xuất khẩu 0% với phân bón ure và supe lân
Góp ý dự thảo Nghị định về biểu thuế xuất, nhập khẩu ưu đãi, Hiệp hội phân bón Việt Nam kiến nghị áp thuế xuất khẩu 0% với phân bón ure và supe lân, thay vì mức 5% hiện hành. Nguyên nhân, theo hiệp hội này, năng lực sản xuất trong nước đang dư thừa so với nhu cầu.
Các nhà sản xuất phân bón muốn giảm thuế xuất khẩu về 0% trong bối cảnh dư thừa hàng triệu tấn mỗi năm |
Tuy nhiên, Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng mức thuế xuất khẩu 5% hiện tại làm giảm cơ hội, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhận định về nguồn cung ure trong nước, TS. Phùng Hà - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội phân bón Việt Nam cho biết, nguồn cung ure trong nước đã dư thừa: Hiện nhu cầu về ure của nước ta mỗi năm chỉ khoảng 1,6 đến 1,8 triệu tấn. Trong khi năng lực sản xuất ure của 4 nhà máy trong nước gồm Đạm Cà Mau, Đạm Phú Mỹ, Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc đã xấp xỉ khoảng 3 triệu tấn.
Trong khi đó, việc xuất khẩu ure từ Việt Nam đã bị cạnh tranh gay gắt bởi nguồn hàng ure từ một số quốc gia như Indonesia, Malaysia, Brunei... nơi các nhà sản xuất không phải chịu thuế xuất khẩu 5% như Việt Nam. Đơn cử, đầu năm 2022, Brunei đã đưa nhà máy sản xuất ure công suất 1,136 triệu tấn/năm đi vào hoạt động. Tính riêng từ tháng 01/2022 đến tháng 3/2023, Brunei đã xuất khẩu 556.000 tấn ure tương đương 322 triệu USD.
Phân bón supe lân cũng tương tự, hiện tổng công suất sản xuất phân bón supe lân của các nhà máy tại Việt Nam cụ thể như: Supe lân Lâm Thao thuộc Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao; Supe lân Apromaco Lào Cai thuộc Công ty Vật tư nông sản; Supe lân Long Thành thuộc Công ty Phân bón miền Nam; Supe lân Đức Giang thuộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Hóa chất Đức Giang đạt khoảng 1,5 -1,6 triệu tấn/năm. Sản lượng phân lân nung chảy của 3 Nhà máy (Văn Điển, Ninh Bình, Lào Cai) khoảng hơn 600.000 tấn/năm. Tổng sản lượng hai loại lân, supe lân và lân nung chảy đạt hơn 2.000.000 tấn/năm.
Cũng theo thống kê, supe lân sử dụng trực tiếp ở mức 500.000 tấn/năm, lượng supe lân sử dụng cho sản xuất NPK vào khoảng 600.000 tấn/năm. Nhu cầu về lân đơn tại nước ta có xu hướng giảm rõ rệt do người dân đã và đang chuyển dần sang sử dụng các loại phân phức hợp hai thành phần như DAP, MAP hay đa thành phần như NPK.
Như vậy, năng lực sản xuất phân bón supe lân đang dư thừa tới hàng triệu tấn/năm, cần phải có đầu ra xuất khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất supe lân để duy trì sản xuất, nếu không phải thu hẹp sản xuất vì cầu trong nước đang xuống mức khá thấp.
Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, lượng supe lân xuất khẩu của Việt Nam rất nhỏ (năm 2022 chưa tới 100.000 tấn/năm).
Từ thực tế này, Hiệp hội Phân bón Việt Nam cũng kiến nghị xem xét điều chỉnh mức thuế suất xuất khẩu phân bón supe lân về mức 0%.
Cũng tại công văn gửi Bộ Tài chính, bên cạnh ure, supe lân, Hiệp hội Phân bón Việt Nam cũng kiến nghị mức thuế xuất khẩu về 0% đối với phân bón kali sulphate (SOP). Hiện cả nước chỉ có Công ty SOP Phú Mỹ là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam và thứ hai tại Đông Nam Á sản xuất kali sulphate với công suất 40.000 tấn/năm. Công ty này cung ứng khoảng 60% cho thị trường trong nước, số còn lại xuất khẩu vì bà con nông dân chưa quen sử dụng SOP mà thường sử dụng KCl, tên thương mại là MOP.
Ngoài ra, lượng xuất khẩu của Công ty SOP khoảng hơn 10.000 tấn/năm, giá trị thuế rất nhỏ so với các ngành hàng khác nhưng lại có đóng vai trò quan trọng với một công ty duy nhất sản xuất SOP tại Việt Nam.
"Việc áp dụng thuế xuất khẩu 0% đối với mặt hàng phân bón SOP nhằm khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất loại phân bón hoàn toàn mới, trong khi người nông dân Việt Nam chưa có thói quen sử dụng" - Hiệp hội Phân bón Việt Nam nêu.
Xem xét lại chính sách thuế phù hợp để ổn định sản xuất cung cầu trong nước
Phản hồi các đề xuất trên, Bộ Tài chính bác đề xuất giảm thuế này, và cho biết tiếp tục trình Chính phủ giữ nguyên mức 5% với phân bón ure, supe lân. Mức thuế 0% được đề xuất với phân NPK, DAP. Quan điểm này nhận được thống nhất từ Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
Thay vào đó, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ bỏ quy định áp thuế xuất khẩu theo giá trị tài nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng. Việc này nhằm tránh phát sinh chi phí theo dõi kê khai, kiểm tra chứng từ sổ sách.
Từ thực tế trên, đại diện lãnh đạo Công ty CP Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc cho rằng, nên xem xét lại chính sách thuế để khuyến khích xuất khẩu ure trong bối cảnh phân bón đã dư thừa, ổn định được nguồn cung trong nước.
Theo đó, việc áp thuế xuất khẩu 5% sẽ ảnh hưởng lớn đối với sản xuất phân bón trong nước, tạo sự cạnh tranh không bình đẳng giữa doanh nghiệp phân bón trong nước và phân bón nhập khẩu; làm giảm sức cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc, Thái Lan khi xuất khẩu vào các nước trong khu vực. Nhu cầu trong nước thấp, tiêu thụ khó khăn; lượng hàng tồn kho cao; cạnh tranh với phân bón ngoại ngày càng gay gắt; kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia đã làm ảnh hưởng tới các đối tác thương mại lớn, từ đó làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có phân bón.
Đối với phân bón SOP, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng đồng tình với kiến nghị của Hiệp hội Phân bón Việt Nam, đề nghị áp dụng thuế xuất khẩu 0% đối với mặt hàng này để khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất loại phân bón hoàn toàn mới, trong khi người nông dân trong nước chưa có thói quen sử dụng.
Hiệp hội Phân bón Việt Nam cũng kiến nghị: Cần cân nhắc mức áp thuế xuất khẩu đối với một số loại phân bón trong nước đã sản xuất dư so với nhu cầu như ure, supe lân. Việc đưa ra một quy định thuế suất thuế xuất khẩu phù hợp nhằm ổn định sản xuất cung cầu trong nước, đảm bảo hài hòa lợi ích của người sản xuất và người sử dụng phân bón.
Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam cần 1,7-2 triệu tấn, thấp hơn 23-35% mức sản xuất của 4 nhà máy Đạm Phú Mỹ, Cà Mau, Hà Bắc và Ninh Bình. Tức là, sản xuất trong nước đang dư thừa, buộc doanh nghiệp phải xuất khẩu để duy trì công suất. |