Vì một nước Việt Nam thống nhất
Trong nước 01/09/2016 12:40 Theo dõi Congthuong.vn trên
Chủ tịch Hồ Chí Minh (thứ 2 từ trái sang) tại sân bay Le Bourget (22/6/1946), chuẩn bị gặp gỡ bà con Việt kiều và các bạn bè Pháp tập trung chào mừng phái đoàn Việt Nam - Ảnh: T.L |
I. Trở lại Đông Dương trong tư thế của một quốc gia trong Đồng minh, nhưng một bộ phận trong chính giới nước Pháp vẫn còn mơ tưởng đến một nước Pháp có những lãnh thổ ở ngoài châu Âu - nguồn lực giúp nước này hồi phục như sau Đại chiến thứ nhất. Vì thế, họ vẫn muốn tìm mọi cách để phủ nhận nền độc lập mà người Việt Nam đã tự mình giành lại được cũng trong tư thế của một “đồng minh” với lực lượng Đồng minh trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít Nhật. Những thế lực nặng óc thực dân cực đoan này tìm mọi cách bóp chết nhà nước Việt Nam Độc lập mà Hồ Chí Minh đã thành lập chỉ với một luận điệu: Không thể chấp nhận một lãnh tụ cộng sản đứng đầu và tìm mọi cách để tách “thuộc địa” Nam kỳ ra khỏi phần còn lại của nước Việt Nam (Trung và Bắc kỳ) - vốn được thực dân coi là xứ “bảo hộ”.
II. Đặt lợi ích quốc gia và thành quả cuộc cách mạng của toàn dân lên trên hết, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (11/1945), Quốc hội sẵn sàng bổ sung 72 đại biểu thuộc các đảng phái “đối lập” không qua bầu cử, trong Chính phủ có thành phần của nhiều đảng phái tham gia… Và hơn thế, bằng một “Hiệp định sơ bộ” ký ngày 6/3/1946, Việt Nam chấp nhận là “một quốc gia tự do trong Khối Liên hiệp Pháp”, còn nền độc lập hoàn toàn sẽ được thực hiện theo một lộ trình do hai quốc gia thỏa thuận. Sau sự đổ vỡ của Hội nghị Đà Lạt bàn về tương lai quan hệ giữa 2 nước, Chính phủ Pháp mời Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm với tư cách là khách của nhà nước, đồng thời với một đoàn đại biểu Việt Nam (do ông Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn) để tiếp tục cuộc đàm phán ở Fontainebleau.
Ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam rời Hà Nội trên phi cơ của Pháp tới Paris. Vào thời điểm đó, nước Pháp đang khủng hoảng nội các nên mãi đến ngày 22/6/1946, đoàn Việt Nam mới tới Paris. Chủ tịch Hồ Chí Minh được đón tiếp với những nghi thức trang trọng, nhưng cuộc đàm phán Việt - Pháp thì bế tắc, chủ yếu vẫn chỉ vì nước Pháp chưa muốn từ bỏ cái thuộc địa tưởng chừng đã phải là dĩ vãng, nhưng vẫn hiện diện.
III. Sau vài tuần làm thượng khách của Chính phủ Pháp, tiếp xúc với giới lãnh đạo quốc gia, thực hiện mọi nghi thức ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thực hiện một việc làm hy hữu trong lịch sử ngoại giao quốc tế là tiếp tục lưu lại ở nước Pháp như một chính khách để tiến hành “vận động hành lang” cho quan hệ 2 nước nói riêng và cho một triển vọng hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh không cần thiết mà cốt lõi của nó là phải đập tan âm mưu của các phần tử “diều hâu” trong chính giới Pháp muốn tách Nam bộ ra khỏi “cơ thể” tổ quốc Việt Nam.
Từ khách sạn Royal Monceau sang trọng mà nước chủ nhà bố trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh dọn về nhà của một người bạn, vốn là một chiến sĩ kháng chiến chống phát xít nổi tiếng của nước Pháp ở vùng ngoại vi. Tại đây, người đứng đầu nhà nước Việt Nam tiến hành các cuộc tiếp xúc rộng rãi với mọi tầng lớp xã hội của nước Pháp, với đông đảo bà con Việt kiều và nhiều đại biểu đến từ các xứ thuộc địa của Pháp và nhiều nước thực dân khác. Đọc lại những tập nhật ký của những người đi theo, có thể thấy dày đặc một chương trình tiếp khách của vị Chủ tịch nước Việt Nam, từ các quan chức cao cấp và chính khách đương nhiệm của nước Pháp đến các cựu Thủ tướng, Đô đốc, các cựu Toàn quyền Đông Dương (A.Sarraut, A.Varenne…) cho đến các nghệ sĩ lớn, trong đó có Pablo Piacasso và Ilya Erenbourg, các đại diện tổ chức phong trào dân tộc châu Phi, các chính đảng, các tổ chức chính trị xã hội của nước Pháp trong đó có Đảng Cộng sản…
Tất cả chỉ nhằm tạo lập mối quan hệ tích cực với nước Pháp và tránh một cuộc xung đột không đáng có. Quan điểm ấy là nhất quán và thể hiện trong tất cả những phát biểu chính thức trước các quan khách nhà nước Pháp, trong các cuộc tọa đàm với chính giới Pháp, trong các bài trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế và ngay cả trong những trao đổi cá nhân với những người dân Pháp. Trên đường về nước trên tàu Dumont dUrville, trả lời bức thư của một bà mẹ Pháp có con đi lính đang có mặt trên chiến trường Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ: “Người Việt Nam và người Pháp chúng ta cùng theo đuổi một lý tưởng giống nhau: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Chúng ta có cùng một mục đích giống nhau là dân chủ. Chúng ta cậy nhờ lẫn nhau, người Việt Nam chúng tôi cũng yêu mến nước Pháp và những người Pháp bạn hữu, chúng tôi bảo đảm quyền lợi kinh tế và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam. Nhưng chính vì để thực hiện sự hợp tác bình đẳng và hữu nghị ấy, chúng tôi quyết dùng tất cả sức mình để giành được nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của chúng tôi… Theo tinh thần bốn bể là anh em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như thanh niên Việt Nam. Đối với tôi sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau” (1).
IV. Ngày 18/9/1946, Hồ Chí Minh rời nước Pháp xuống tàu ở bến cảng Toulon sau khi đã ký một tạm ước với Bộ trưởng M.Moutet vào rạng sáng ngày 14/9/1946, nhằm kéo dài thương lượng và ngăn cản chiến tranh bùng nổ sau khi cuộc đàm phán ở Fontainebleau tan vỡ. Mãi đến ngày 21/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đặt chân lên bến cảng Hải Phòng sau gần 5 tháng xa tổ quốc, kết thúc chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên của nguyên thủ nước Việt Nam độc lập - chuyến đi lịch sử cách nay đúng 70 năm.
V. Sau này, Jean Sainteny - viên chức đại diện Chính phủ Pháp tháp tùng chuyến đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh - trong phần kết của chương sách viết về chuyến thăm này, trong cuốn sách Histoire dune paix manquée (Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ) đã thừa nhận rằng, khi chia tay với những “công binh” người Việt (lính thợ ở Thế chiến II) đang có mặt ở thành phố Marseille, trong khi các nghị sĩ cộng sản hô hào chống đối chính phủ Pháp thì Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mềm mỏng bày tỏ sự mong muốn giữ được mối quan hệ hữu hảo với nước Pháp để tránh đổ máu. Ký ức của một công binh khi đó - người sau này nổi tiếng là danh họa Lê Bá Đảng - cho biết, Hồ Chủ tịch không khuyến khích những công binh này về nước “đánh giặc” mà khuyên họ ở lại học nghề phục vụ cho nước Pháp và khi cần sẽ trở về xây dựng tổ quốc với hy vọng rằng quan hệ Việt - Pháp không thể là chiến tranh.
Nhưng cuối cùng thì chiến tranh vẫn nổ ra… Để rồi gần một nửa thế kỷ sau khi cuộc chiến ấy khởi động, gần bốn thập kỷ sau khi cuộc chiến ấy kết thúc, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand đến thăm Việt Nam (1993) đã nhắc lại chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1946 với lời đánh giá đầy tiếc nuối rằng, vào thời điểm đó, nước Pháp đã không có người đối thoại với những thiện chí của Hồ Chí Minh. Nhà nước Việt Nam độc lập ngay từ đầu đã xác lập chính sách đối ngoại của mình là “Mong muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không muốn gây sự với ai cả”.
VI.70 năm trước là vậy, giờ đây và mãi mãi vẫn là vậy!
(1) Thư gửi bà Chossis trong Hội Liên hiệp phụ nữ Pháp, 22/9/1946