vắc-xin “made in Việt Nam” mới chỉ đáp ứng được 30 – 50% nhu cầu trong nước |
Nguồn lợi kinh tế lớn từ vắc-xin “made in Việt Nam”
Việt Nam là nước nông nghiệp, trong đó ngành chăn nuôi chiếm vai trò quan trọng. Hiện nay, cả nước có hơn 6 triệu hộ chăn nuôi (trong số 8.6 triệu hộ sản xuất nông nghiệp). Gía trị ngành chăn nuôi chiếm đến hơn 5% GDP quốc gia. Do đó việc phòng chống, đối phó với dịch bệnh ở vật nuôi là cấp thiết, quan trọng, nhất là việc nghiên cứu sản xuất và làm chủ công nghệ sản xuất vắc-xin.
Trong những năm qua, với sự thúc đẩy và hỗ trợ của chính phủ, rất nhiều các đơn vị nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ tại Việt Nam đã bắt đầu làm chủ được quy trình và công nghệ sản xuất các loại vắc- xin phòng bệnh cho vật nuôi, điển hình như Vắc-xin phòng bệnh lở mồm long móng cho gia súc; Vắc-xin phòng bệnh tai xanh ở lợn; Công nghệ sản xuất vắc-xin đa giá phòng 03 bệnh viêm phổi phổ biến ở lợn…
Vắc-xin lở mồm long móng chiếm tỷ trọng cao nhất trong các loại vắc-xin phòng bệnh cho vật nuôi tại Việt Nam. Theo thống kê, trung bình 5 năm trở lại đây, hàng năm Việt Nam phải nhập khoảng 25 triệu liều từ Hà Lan, Pháp, Trung Quốc... Tuy nhiên, với tổng đàn gia súc của ngành chăn nuôi cần tối thiểu 75-80 triệu liều. Tỷ lệ nhập ngoại trước đây là 100%. Nhưng đến năm 2020, dự kiến tỷ lệ nhập khẩu vắc-xin này sẽ giảm xuống 50% và tiến tới chủ động sản xuất hoàn toàn tại Việt Nam. Doanh thu dự kiến từ sản xuất vắc-xin lở mồm long móng typ O đến năm 2020 là 183 tỷ đồng/ 12,2 triệu liều.
Việt Nam đã bắt đầu làm chủ được quy trình và công nghệ sản xuất các loại vắc- xin phòng bệnh cho vật nuôi |
“Lợi nhuận kinh tế do kinh doanh vắc-xin đem lại là rất lớn, nhất là với một nước nông nghiệp như Việt Nam. Theo thống kê, doanh thu từ một sản phẩm vắc-xin hoặc 1 nhóm sản phẩm vắc-xin có thể đạt đến 2.000 tỷ/năm. Từ đó, giúp giảm nguồn chi phí rất lớn để nhập khẩu vắc-xin, đồng thời góp phần tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng và quốc gia nói chung”, TS. Nghiêm Quốc Đạt - Trưởng phòng quản lý dự án, Văn phòng các chương trình khoa học công nghệ quốc gia, Bộ KH&CN cho biết.
Ông Đạt giải thích thêm: Nhập khẩu vắc-xin tốn kém nguồn ngoại tệ lớn nhưng chúng ta khó kiểm soát được chất lượng do quá trình vận chuyển xa và thời gian dài. Việc nhập khẩu cũng là nguyên nhân khiến chúng ta bị động trong việc phòng, chống dịch bệnh. Ngược lại, vắc-xin được nghiên cứu sản xuất trong nước có hiệu quả cao, giá thành thấp hơn rất nhiều.
“Thành công trong việc sản xuất vắc-xin giúp khẳng định vị thế và trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam với khu vực và thế giới. Từ những ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học, xã hội, kinh tế của vắc-xin phòng bệnh ở vật nuôi mà đề tài nghiên cứu vắc-xin “made in Việt Nam” là một trong những mục tiêu trọng tâm trong Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2441/QĐ-TTg ngày 31/12/2010”, ông Đạt cho biết.
Đẩy mạnh phối hợp giữa đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp
Hiện nay, dù tại nước ta có một số tổ chức nhà nước có nền tảng sản xuất vắc- xin cơ bản và một số doanh nghiệp bắt đầu đầu tư nghiên cứu, xây dựng dây chuyền công nghệ sản xuất vắc-xin cho vật nuôi, thế nhưng lượng vắc-xin “made in Việt Nam” mới chỉ đáp ứng được 30 – 50% nhu cầu.
Ông Nghiêm Quốc Đạt cho biết: “Hiện nay chúng ta mới sản xuất các vắc-xin đơn giá với công nghệ trung bình. Để tạo ra bước đột phá về giá trị khoa học, tạo ra sản phẩm có giá trị thương mại cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, nước ta cần đẩy mạnh công nghệ sản xuất vắc-xin đa giá (4 trong 1. 5 trong 1 hay 6 trong 1).”
Để tạo ra bước đột phá này, chúng ta cần đẩy mạnh sự phối hơp, liên kết chặt chẽ giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học với công ty, doanh nghiệp sản xuất.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục thú ý, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn |
Tiến sĩ Nguyễn Văn Long, Phó Cục trưởng Cục thú ý, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thông tin: Hiện nay, Việt Nam có 9 nhà máy sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP-WHO (tiêu chuẩn Thực hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức Y tế thế giới), sản xuất được 15 sản phẩm vắc-xin các loại.
“Về cơ bản, vắc-xin sản xuất trong nước đã đáp ứng được nhu cầu phòng các bệnh thông thường trên gia súc, gia cầm. Một số loại phòng được những bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, lở ồm long móng, tai xanh, dại… Nhưng hiệu quả sản xuất vắc-xin Việt Nam sẽ còn nâng cao hơn nữa khi mối liên kết giữa doanh nghiệp và các đơn vị nghiên cứu được tăng cường.”, ông Long cho hay.
Đồng tình với ý kiến này, ông Nghiêm Quốc Đạt cho biết thêm: “Doanh nghiệp nên chủ động nắm bắt tín hiệu thị trường, hiểu rõ được tầm quan trọng của chuỗi giá trị sản phẩm vắc-xin, từ đó có chính sách thu hút, huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học để liên kết tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, có tính cạnh tranh cao, cung ứng cho thị trường. Ngược lại, các viện nghiên cứu, trường đại học, các nhà khoa học cũng nên nắng động, chủ động bám sát nhu cầu thị trường và doanh nghiệp để tạo ra các sản phẩm khoa học công nghệ có khả năng triển khai ứng dụng”.
“Vai trò của Văn Phòng chương trình quốc gia bên cạnh quản lý và hỗ trợ các đơn vị triển khai nghiên cứu dự án thuộc các chương trình KH&CN Quốc gia theo quy định, văn phòng còn đóng vai trò làm cầu nối liên kết giữa các doanh nghiệp với các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học. Chúng tôi cũng đẩy mạnh tổ chức hội thảo, tọa đàm để chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện dự án giữa các nhà khoa học và doanh nghiệp”, ông Đạt chia sẻ.