Bắt đầu từ đầu tháng 5/1945, nhận thấy thời cơ cách mạng đã đến, Bác đã cùng các cán bộ rời Pác Bó để chuẩn bị cho ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam).
Cùng Báo Công Thương nhìn lại 120 ngày vượt sông băng núi của Bác Hồ cùng các chiến sĩ cách mạng rời Pác Bó về Ba Đình.
1. Bác Hồ trở về nước
Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở về Tổ quốc qua cột mốc 108 (tỉnh Cao Bằng).
Sự kiện này mang ý nghĩa lịch sử to lớn, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, khi Người trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mở đầu cho những thắng lợi vĩ đại sau này, mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Bác Hồ về nước ngày 28/1/1941. Tranh: Trịnh Phòng
2. Lán Khuổi Nặm, Cao Bằng
Ngày 4/5/1945, đoàn khởi hành từ lán Khuổi Nặm, dọc bờ suối Lê-nin qua các bản làng thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng ngày nay.
Tại lán Khuổi Nặm, một căn lán nhỏ bên dòng suối, nơi cách hang Pác Bó khoảng 1km, Bác Hồ đã sáng lập tờ báo "Việt Nam độc lập". Đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng do Người triệu tập và chủ trì. Ngày 4/5/1945, từ đây, Bác Hồ cùng đoàn cán bộ đã bắt đầu hành trình từ Pác Bó về thủ đô Hà Nội.

Lán Khuổi Nặm, Cao Bằng. Ảnh: TTXVN

Đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng do Người triệu tập và chủ trì. Ngày 4/5/1945, từ đây, Bác Hồ cùng đoàn cán bộ đã bắt đầu hành trình từ Pác Bó về thủ đô Hà Nội. Ảnh: Nam Nguyễn

Suối Lê - Nin tại Cao Bằng
3. Lam Sơn - Cao Bằng
Tiếp đến, từ ngày 6 đến ngày 8/5, vùng núi Lam Sơn thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trở thành đại bản doanh của những người cộng sản kiên trung.
Trong hang Ngườm Bốc tĩnh lặng, Bác Hồ đã cùng các lãnh đạo Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng tổ chức cuộc họp lịch sử, nơi những quyết sách quan trọng được đưa ra, mở đường cho cuộc Tổng khởi nghĩa vĩ đại vào tháng Tám năm 1945.

Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5, vùng núi Lam Sơn thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng trở thành đại bản doanh của những người cộng sản kiên trung.

Trong hang Ngườm Bốc tĩnh lặng, Bác Hồ đã cùng các lãnh đạo Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng tổ chức cuộc họp lịch sử, nơi những quyết sách quan trọng được đưa ra, mở đường cho cuộc Tổng khởi nghĩa vĩ đại vào tháng Tám năm 1945.
4. Đến Tân Trào, Tuyên Quang
Sáng ngày 9/5/1945, Bác Hồ và đoàn cán bộ bắt đầu hành trình đến Tân Trào (Tuyên Quang). Sau nhiều ngày vừa đi vừa nghỉ, đến 16 giờ ngày 21/5/1945, đoàn đã đến nơi. Đây chính là căn cứ địa quan trọng, nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng đã sống và làm việc để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa.
Lán Nà Nưa cùng với cây đa Tân Trào đã trở thành những biểu tượng lịch sử của Cách mạng tháng Tám, là nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng ra những quyết định mang tính bước ngoặt, dẫn đến thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Lán Nà Nưa ngày xưa ảnh tư liệu TTXVN

Lán Nà Nưa ngày nay

Cây đa Tân Trào - biểu tượng của lịch sử Cách mạng
5. Nhà cụ An - Phú Thượng
Sau khi rời căn cứ địa cách mạng Tân Trào (Tuyên Quang), Bác Hồ đã về đến Hà Nội vào ngày 23/8/1945. Do cần một nơi bí mật, an toàn để chuẩn bị cho buổi đọc Tuyên ngôn Độc lập, đồng chí Lê Đức Thọ đã giới thiệu Bác đến ở tại nhà cụ Nguyễn Văn An.
Nhà cụ An đã trở thành điểm dừng chân bí mật của Bác Hồ trong những ngày quan trọng trước khi Người ra mắt quốc dân đồng bào.
Tại đây, Bác đã làm việc, bàn bạc với các đồng chí trong Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh để chuẩn bị những công việc cuối cùng cho ngày lịch sử 2/9.

Nhà cụ An - điểm dừng chân bí mật của Bác Hồ trong những ngày quan trọng trước khi Người ra mắt quốc dân đồng bào

Bác đã làm việc, bàn bạc với các đồng chí trong Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh để chuẩn bị những công việc cuối cùng cho ngày lịch sử 2/9.


Di tích, Bảng xếp hạng Di tích Quốc gia đối với Nhà cụ An
6. Nhà 48 Hàng Ngang
Từ ngày 25 đến 28/8/1945, sau khi về Hà Nội, Bác Hồ đã ở và làm việc tại tầng hai của ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Tại đây, Bác đã viết những dòng đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập, một văn kiện lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngôi nhà không chỉ là nơi ở và làm việc của Bác mà còn là nơi diễn ra các cuộc họp quan trọng của Thường vụ Trung ương Đảng để chuẩn bị cho buổi Lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình.

Từ ngày 25 đến 28/8/1945, sau khi về Hà Nội, Bác Hồ đã ở và làm việc tại tầng hai của ngôi nhà 48 Hàng Ngang

Căn nhà số 48 Hàng Ngang tái hiện hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chiếc bàn lịch sử, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo Bản "Tuyên ngôn độc lập"

Ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang là di tích đặc biệt quan trọng trong cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
7. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập
Từ một vùng đất của Hoàng thành Thăng Long xưa, Quảng trường Ba Đình đã trải qua bao thăng trầm lịch sử để trở thành trái tim thiêng liêng của Việt Nam. Tên gọi Ba Đình được lấy từ một xã tại Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp oanh liệt năm 1886, như một lời nhắc nhở về tinh thần bất khuất của dân tộc.
Và rồi, vào ngày 2/9/1945, tại chính nơi đây, một khoảnh khắc bất tử đã đi vào lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng trên lễ đài, giọng người vang lên từng câu, từng chữ của bản Tuyên ngôn Độc lập, trang trọng và đầy tự hào. Giữa biển người đứng lặng, từ chính mảnh đất này, một quốc gia mới đã được khai sinh, mang tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng trên lễ đài, giọng người vang lên từng câu, từng chữ của bản Tuyên ngôn Độc lập, trang trọng và đầy tự hào. Ảnh: Tư liệu TTXVN
8. Quảng trường Ba Đình
Từ ngày 2/9/1945 trở đi, Ba Đình không chỉ là một quảng trường, mà còn là nơi lưu giữ những ký ức không thể nào quên. Nơi đây đã chứng kiến những cuộc duyệt binh đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, những cuộc diễu binh hoành tráng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, và những ngày đại lễ Quốc khánh đầy xúc động.
Mỗi bước chân diễu hành trên quảng trường này đều mang theo niềm tự hào về một dân tộc đã đứng lên từ tro tàn, giành lấy tự do và độc lập.

Quảng trường Ba Đình ngày nay

Ba Đình không chỉ là một quảng trường, mà còn là nơi lưu giữ những ký ức không thể nào quên.