Ở Mỹ khoảng 50% số người ung thư dạ dày khi được chẩn đoán đã ở giai đoạn muộn hoặc xâm lấn rộng hoặc có di căn xa, chỉ 50% bệnh nhân bệnh còn ở giai đoạn tại chỗ và có khả năng điều trị phẫu thuật triệt căn. Do vậy chẩn đoán sớm ung thư dạ dày ở các quốc gia có tỷ lệ ung thư dạ dày cao như Nhật Bản (cao gấp 5 lần Mỹ) Hàn Quốc, các nước vùng Đông Á, vùng Andean ở Nam Mỹ… và nhất là ở Việt Nam là vấn đề rất lớn.
Ở Việt Nam theo số liệu ghi nhận UT của đề tài KC 10.06 ước tính trong 4 năm 2001 – 2004 có khoảng 19.100 người được chẩn đoán là UT dạ dày (số liệu này còn rất xa với thực tế) và 2/3 số này được chẩn đoán ở giai đoạn muộn.
Chẩn đoán sớm ung thư dạ dày
Ung thư dạ dày sớm (Early gastric cancer) là UT biểu mô tuyến chỉ giới hạn ở lớp niêm mạc, dưới niêm mạc của dạ dày và có thể đã có di căn hạch hoặc chưa có di căn hạch vùng (T1Nx), có tiên lượng tốt hơn so với ung thư dạ dày xâm nhập (T2Nx), do vậy việc sàng lọc, phát hiện sớm ung thư dạ dày quyết định hiệu quả điều trị, thời gian sống.
Các triệu chứng lâm sàng của UT dạ dày sớm thường ít như đau thượng vị, khó tiêu (65-90%), buồn nôn, nôn (6-40%), chán ăn (12-40%), các dấu hiệu muộn hơn như sút cân, thiếu máu. Tuy nhiên để chẩn đoán UT dạ dày sớm vẫn chủ yếu dựa vào nội soi, bấm sinh thiết nhiều vị trí nghi ngờ.
Ở Nhật Bản vào khoảng trên 60% bệnh nhân được chẩn đoán ung thư dạ dày sớm. Tại Mỹ ước chừng được 10-20% và ở Việt Nam theo một số báo cáo tại viện Việt – Đức, Bệnh viện 108 và Bệnh viện K con số này cũng chỉ dao động ở khoảng trên dưới 10%. Có sự khác nhau đó là tại Nhật Bản người ta tiến hành sàng lọc hàng loạt bằng biện pháp nội soi dạ dày, tá tràng có và không có nhuộm màu. Tổn thương được nhuộm hoặc bằng Indago carmin hoặc Indianinks có phân tử nhỏ hoặc đơn giản bằng xanh methylen. Như vậy tất cả những người từ 45 tuổi trở lên định kỳ 6 tháng/1 lần được nội soi dạ dày hàng loạt. Nhờ vậy tỷ lệ ung thư dạ dày sớm được phát hiện ngày càng cao.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Bệnh viện K, tất cả những người từ 45 tuổi trở lên, nếu có các triệu chứng lâm sàng nghi ngờ nên đi khám và soi dạ dày. Chỉ có nội soi, sinh thiết từ 3 mảnh trở lên mới có hy vọng chẩn đoán sớm, chẩn đoán chính xác UT dạ dày .
Đặc điểm triệu chứng ung thư dạ dày lâm sàng
Cũng như phần chẩn đoán ung thư dạ dày sớm, chẩn đoán ung thư dạ dày ngày nay không còn là vấn đề lớn, chỉ có điều bệnh nhân có đến với thầy thuốc hay không? Và đến ở giai đoạn nào? Tuy nhiên các triệu chứng lâm sàng thường mờ nhạt ở giai đoạn sớm, khi đã rõ ràng thì đã ở giai đoạn tiến triển.
Sút cân và đau bụng dai dẳng là những triệu chứng phổ biến thường gặp khi bệnh nhân đến khám và được chẩn đoán, sút cân có thể do ăn uống kém, tăng dị hoá, do đau, buồn nôn, nuốt nghẹn…
Đau bụng vùng thượng vị có thể do đau thần kinh phế vị, đau nhẹ nếu bệnh ở giai đoạn sớm, đau nhiều khi ở giai đoạn muộn hơn.
Nuốt nghẹn thường xuất hiện khi khối u phát triển gần tâm vị, hoặc đoạn nối với thực quản.
Buồn nôn, đầy hơi gặp ở một số bệnh nhân u lan rộng, hoặc khối u ở vùng môn vị gây cản trở lưu thông thức ăn.
Chảy máu dạ dày – ruột kín đáo có thể dẫn đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt, hiếm khi chảy máu nặng.
Khối u thành bụng khi thăm khám xảy ra khi khối u ở thân vị, thường là giai đoạn muộn.
Những dấu hiệu khối u lan rộng: khi khối u thâm nhiễm qua thành dạ dày gây dò dạ dày-đại tràng, gây tắc ruột do thâm nhiễm vào đại tràng đây là những trường hợp hiếm. Khi tế bào UT lan rộng qua hệ thống hạch lymphô, chúng ta có thể khám thấy hạch thượng đòn trái, hạch nách trái, hạch quanh rốn. Có khi tế bào ung thư lan tràn qua đường ổ phúc mạc, di căn buồng trứng (Krukenberg), di căn gan đa ổ, có thể gây vàng da, gây tràn dịch ổ bụng…
Triệu chứng cận lâm sàng
Nội soi dạ dày tá tràng ống mềm: Đây là một biện pháp hữu hiệu nhất để chẩn đoán ung thư dạ dày. Với các cải tiến mới từ fiberscop đến vidioscop tổn thương có thể được phóng đại lên nhiều lần và được hội chẩn ngay trên màn hình thậm chí nhờ nối mạng có thể được hội chẩn từ xa (tele medical consultant) và nếu nghi ngờ tiến hành nhuộm màu và thực hiện kỹ thuật sinh thiết 7 mảnh đạt độ chính xác cao 95-99%, trong quá trình soi bên cạnh bấm sinh thiết, ta có thể thực hiện chải tế bào bổ sung thêm cho phương pháp sinh thiết.
Ở Việt Nam phần lớn các bệnh viện tuyến tỉnh đã có được trang bị kỹ thuật này, thậm chí ở cả một số trung tâm y tế huyện.
Chẩn đoán hình ảnh khác
Chụp dạ dày-tá tràng có Baryt hàng loạt: đây là một kỹ thuật kinh điển, nó giúp cho việc chẩn đoán các bệnh lý dạ dày tá tràng rất tốt trước khi nội soi ống mềm được phổ cập. Ngày nay nó vẫn còn được sử dụng không phải với mục đích chẩn đoán là chính mà chủ yếu để đánh giá mức độ lan rộng giúp cho đặt chẩn đoán giai đoạn.
Computed Tomograply (CT-Scan) ổ bụng: đây là một phương pháp chẩn đoán không can thiệp, nhưng chủ yếu để đánh giá tình trạng xâm lấn các tổ chức xung quanh và đặc biệt để đánh giá tình hình di căn: gan, hạch, tình trạng ổ bụng, ổ phúc mạc, dịch… tuy nhiên hạn chế của CT là không thể phát hiện các tổ thương nhỏ hơn 5 mm, hay đánh giá sự xâm lấn của u theo chiều sâu, hoặc tình trạng hạch di căn.
Siêu âm nội soi (Endoscopic-Ultrasound): đầu phát sóng siêu âm, được đưa cùng với ống nội soi (như đã mô tả) vào dạ dày tá tràng; ngoài việc quan sát qua hình ảnh nội soi, nhờ có sóng siêu âm, bác sĩ khám bệnh còn đánh giá độ sâu, độ xâm lấn của khối u vào thành dạ dày ra sao, di căn hạch và các cơ quan lân cận như thế nào. Đây là một trang bị tương đối đắt tiền nhưng rất cần thiết nhất là ở các bệnh viện chuyên ngành và bệnh viện lớn. Vì nó cho phép không chỉ chẩn đoán mà còn giúp đánh giá giai đoạn bệnh khá chính xác.
Positron Emisson Tomography (PET): trong xét nghiệm này người ta thường sử dụng glucose đánh dấu phóng xạ. Vì tổ chức UT tiêu thụ glucose nhanh hơn rất nhiều so với tổ chức lành, vì vậy tổ chức UT sẽ là nơi tập trung nồng độ phóng xạ cao. PET tuy vẫn còn được nghiên cứu nhưng khả năng phát hiện những ổ UT nhỏ (tiền lâm sàng) cũng như các ổ di căn nhỏ của ung thư dạ dày là đầy hứa hẹn.
Laparoscopy: đây là phương pháp chẩn đoán phục vụ cho xếp giai đoạn chính xác hơn. Đầu camera được đưa vào ổ bụng qua một lỗ mở nhỏ, camera cho phép quan sát, đánh giá lần cuối cùng mức độ xâm lấn của khối u, di căn hạch và di căn các tạng khác. Đây là phương pháp chẩn đoán can thiệp, tuy nhiên nó có ưu điểm đánh giá kỹ hơn các tổn thương nhỏ trên bề mặt gan, tình trạng ổ phúc mạc, tình trạng hạch, ngay cả PET scan cũng chỉ phát hiện được các tổ thương ổ phúc mạc 50%.
Các xét nghiệm khác: chụp phổi đánh giá lan tràn của bệnh, các chỉ điểm u CA125, CA19.9, CA72.4 có thể tăng trong ung thư dạ dày, một số bệnh nhân tăng CEA.