Tuy nhiên, hương đầu vẫn cứ phải là bơ. Nhắc đến bơ thì tôi đồ rằng "mùi xứ sở" của Tây Tạng ắt phải là mùi bơ, mà là bơ bò Yak. Ngay cả khi đã rời khỏi dãy Himalaya cả tháng trời, hoặc cho đến tận lúc thăng thiên về cõi Niết bàn, hễ nhắc đến Tây Tạng là lập tức bầu không khí xung quanh tôi lại phảng phất mùi hoi hoi của bơ Yak. Hoặc ngược lại, cứ nhìn thấy bơ, dù là bơ trên bàn tiệc giữa thành Paris, ký ức tôi lại bị kéo giật lùi lên núi cao. Dường như Tây Tạng được phủ trong bơ và bò. Trong khu phố Bakhor và ngay cả giữa đại lộ Bắc Kinh (phố chính của Lhasa), nhác lại xuất hiện một cửa tiệm nhỏ xíu chừng vài mét vuông. Tiệm kê mỗi cái ghế gỗ cho người bán, và một chiếc bàn gỗ tạp. Trên bàn bày hai súc thịt bò Yak, hoặc chơ lơ mỗi tảng bơ Yak nặng hàng cân. Nhìn đã biết ấy là hai thứ thiết yếu hàng ngày của các công dân Tibet.
Những du khách đam mê khám phá Tây Tạng (tác giả ngoài cùng bên trái) |
Đầu tiên là trà đen. Người Tạng dùng lá trà sấy khô rồi đóng bánh cứng như cục gạch, vì thế mỗi lần đun trà trong nồi nước trên bếp lò cũng phải mất nửa ngày trời. Công dụng của trà đen nguyên lá đối với sức khỏe đã được các nhà khoa học minh chứng. Thứ hai là bơ Ghee. Bơ tinh chất tốt cho tim mạch, xương cốt, dạ dày, da dẻ như thế nào thì các tạp chí dinh dưỡng đương thời không khi nào thôi nhắc đến. Thứ ba là muối đá hồng Himalaya. Thành phần này mới thực lung linh, thần bí và thuần khiết, nó được giới chuyên gia phân tích tới 84 khoáng chất. Có nhúm muối thôi mà như nuốt vào bụng cả một bảng tuần hoàn hóa học hoàn hảo: Natri Clorua, Canxi, Magie, Kali, Sulfat, Borat, Florua, Stronti…
Muối đá núi hiếm có khó tìm, vì thế cũng bổ béo hơn muối biển. 250 triệu năm trước, các mảng đại lục tự di chuyển sau những cơn địa chấn lớn, và sức va chạm khủng khiếp này tạo nên cơn đại hồng thủy huyền thoại, khiến bề mặt trái đất thay đổi hoàn toàn. Nhiều vùng đất bị chôn vùi dưới lòng đại dương, và những phần khác lại nhô lên bất thường, trong đó có dãy Himalaya. Các mỏ đá muối hình thành từ sự kết tinh diệu kỳ giữa các khoáng chất tự nhiên trong lòng đất và những tinh thể muối còn mắc kẹt sau đại hồng thủy. Muối hồng vì thế không chỉ có mỗi màu hồng, mà biến ảo từ trắng ngà, vàng nhạt, cam đất, đỏ hồng. Ăn muối hồng thực chất là đang tiêu hóa những mảng hóa thạch từ thuở hồng hoang. Người núi cao dùng muối hồng để pha trà, còn dân thành thị giữa thế kỷ 21 mang ra để tắm trắng, ngâm chân, tẩy tế bào da chết, thành công cụ làm đẹp. Ba thức bổ dưỡng đầy tính chữa bệnh ấy trộn với nhau sẽ tăng cường sinh lực cho người uống tới khi nào khỏe bằng bò Yak thì thôi.
Người Tạng thực ra giản đơn hơn các nhà khoa học, họ thấy chất béo và muối giúp làm ấm cơ thể thì pha luôn vào trà để giữ nhiệt. Lắm người bảo Pocha có vị súp, uống trà mà như ăn súp, ngầy ngậy, mằn mặn. Nhưng vị mặn ấy thanh, nó chỉ lướt qua vị giác như một cơn gió heo lạnh lúc đầu mùa, để cho món trà bớt ngấy. Càng lên cao, các cư dân núi đá sẽ càng bổ sung thêm muối vào trà để giữ nhiệt. Khi thời tiết xuống đến -15 độ C thì một tách trà bơ mặn trong lều sẽ là đỉnh cao của sự lý tưởng và thi vị.
Người ta có thể cho thêm sữa bò vào trà để dịu mùi, dù tất cả những ly trà tôi uống dọc đường từ Lhasa lên Everest đều chỉ có bơ chứ không bỏ sữa. Đấy cũng là kiểu của người Mông Cổ, uống trà Suutei Tsai với sữa dê, cừu và ngựa, tuy quy trình có đôi chút khác nhau. Do sự khan hiếm của bơ và sữa bò Yak, người pha trà dùng luôn sữa bò tươi đóng hộp và bơ mua ngoài siêu thị. Trà cũng không mấy ai dùng loại đóng bánh cục gạch như thời xưa nữa mà xài luôn trà túi lọc cho tiện lợi. Muối tinh ra tạp hóa nào cũng sẵn, thay vì muối hồng cao quý từ các mỏ muối Himalaya. Trà vì thế không cần đun tới nửa ngày mà chỉ mất năm phút. Tất cả cho vào máy xay sinh tố đánh tan là xong, rồi đổ vào phích dùng dần.
Đêm cuối cùng trên đất Tây Tạng, tôi ngủ trong khu lều trại Everest. Ngồi bên vách lều đầy hoa văn, tôi ngắm hai cái phích trên chiếc bàn in hoa hồng đỏ, nghĩ rằng trong đó chỉ có nước sôi. Cô chủ lều ngoài 30 tuổi tên Akar nghĩa là "Pha lê trắng", dù cô đen như bóng hoàng hôn cuối cùng rơi trên Everest. Akar cúi xuống xúc than phân bò bỏ vào lò cho ngọn lửa bùng lên, hai bím tóc tết sợi xanh đỏ rủ xuống ấm nước đang sôi ùng ục. Một vài người trong đoàn ủ rũ cuộn mình dưới chiếc chăn bông to xụ góc lều. Họ bị những cơn đau đầu khủng khiếp do sốc độ cao hành hạ. Akar rót thứ gì đó vào một cốc giấy rồi ra hiệu đưa cho người đang gặp cơn sang chấn nguy hiếm.
Trà bơ sẽ giúp bạn phục hồi và duy trì qua đêm nay, Akar nói bằng tiếng Quan Thoại và bạn tôi dịch lại. Tôi xin một cốc của người ốm, hít hà mùi thơm thanh khiết của bơ Yak đang vồn vã bay lên từ trà nóng. Trong hơi ấm sực của ngọn lửa cam vàng bập bùng trên bệ bếp, tôi ngồi bình yên giữa chiếc nệm hoa, cạnh những người bạn đồng hành đang yên lặng. Ngoài kia là con suối hầu muốn đóng băng trước khi chuồi được xuống chân núi, và Everest, đỉnh cao của dương gian đang chần mình trước sức gió hơn trăm kilomet trên giờ. Đỉnh băng tuyết vĩnh cửu đương -30 độ C, còn ngoài cửa lều thôi cũng đã khiến người ta ngạt thở vì khô, vì lạnh, và gió. Mọi sự tồn tại đều có lý lẽ riêng của nó.
Và, trà bơ mặn Pocha, đã có lý suốt cả ngàn năm qua.