Tò he: Từ món đồ chơi dân gian hướng đến sản phẩm văn hóa xuất khẩu

Nghề nặn tò he không chỉ bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống mà còn mở ra hướng phát triển mới, trở thành sản phẩm làng nghề mang bản sắc dân tộc và giá trị xuất khẩu.

Giữ hồn nghề, nâng tầm sản phẩm

Làng nghề nặn tò he xã Phượng Dực (TP. Hà Nội) đã có lịch sử hơn ba thế kỷ. Nghề khởi nguồn từ việc các thế hệ nghệ nhân tạo hình chim, cò bằng bột nếp, gánh ra chợ quê bán. Qua thời gian, nghề dần hiện đại hóa, tò he được nặn bằng que để trẻ em chơi, màu sắc sử dụng phẩm thực phẩm an toàn, nguyên liệu vẫn giữ bột gạo nếp, nhưng sản phẩm bền hơn, trưng bày lâu hơn.

Từ bàn tay khéo léo và tâm huyết, những người nặn tò he “biến” thứ bột nặn vô tri vô giác thành những sản phẩm nghệ thuật đầy sáng tạo, đa sắc màu. Ảnh: N.H

Từ bàn tay khéo léo và tâm huyết, những người nặn tò he “biến” thứ bột nặn vô tri vô giác thành những sản phẩm nghệ thuật đầy sáng tạo, đa sắc màu. Ảnh: N.H

Mỗi con tò he nhỏ bé không chỉ là món đồ chơi đơn thuần mà còn chứa đựng ký ức của bao thế hệ, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, Nghệ nhân Đặng Văn Điền, người gắn bó với nghề từ thuở thiếu thời, chia sẻ: “Ngày xưa, tò he vừa chơi vừa ăn được, còn bây giờ chỉ để chơi, để trưng bày, nhưng lại bền và đẹp hơn rất nhiều”.

Thường xuyên tham gia các hội chợ, lễ hội và sự kiện quảng bá làng nghề như sự kiện Triển lãm A80 hay Hội chợ Mùa Thu lần thứ nhất – 2025, mỗi lần trình diễn, đặc biệt là trước trẻ em, ông Điền đều nhận thấy sức hút đặc biệt của tò he: “Các bạn nhỏ rất thích những nhân vật hoạt hình như Tung Tung Tung Sahur hay công chúaElsa. Còn với người lớn, tò he gợi lại một phần ký ức tuổi thơ đã xa”.

Tuy nhiên, bên cạnh niềm tự hào, nghề tò he cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Thị trường đồ chơi hiện đại ngày càng phong phú, thu hút giới trẻ hơn. Nhiều người biết nghề nhưng ít ai gắn bó lâu dài. Theo nghệ nhân Đặng Văn Điền, nghề tò he chỉ đủ nuôi đam mê, chứ chưa thể nuôi sống gia đình. Ngày thường bán lẻ không đủ chi phí, chỉ đến mùa lễ hội hay hội chợ mới có thu nhập khá hơn.

Chuyển mình nhờ thương mại điện tử và xúc tiến xuất khẩu

Sau năm 2008, khi Hà Nội cấm bán hàng rong, nhiều nghệ nhân phải tìm hướng đi mới. Nghệ nhân Đặng Văn Tiên, người có gần 30 năm gắn bó với nghề, đã cùng một số nghệ nhân làng nghề mạnh dạn chuyển đổi phương thức kinh doanh. “Chúng tôi đưa tò he lên sàn thương mại điện tử, hợp tác với trung tâm thương mại để trưng bày và bán sản phẩm. Nhờ vậy, tò he không còn bó hẹp trong không gian làng quê mà đã đến với khách hàng cả nước, thậm chí ra nước ngoài”.

Nét đẹp văn hóa dân gian qua những chiếc ‘tò he’. Ảnh: N.H

Nét đẹp văn hóa dân gian qua những chiếc ‘tò he’. Ảnh: N.H

Nhờ tận dụng mạng xã hội, những buổi livestream nặn tò he trên TikTok, Facebook thu hút hàng trăm nghìn lượt xem. Nhiều Việt kiều và khách hàng quốc tế bày tỏ sự thích thú khi được chứng kiến trực tiếp quá trình tạo hình, coi đây là một trải nghiệm văn hóa độc đáo của Việt Nam.

Không dừng lại ở đó, các nghệ nhân còn nghiên cứu cải tiến nguyên liệu. Bột nếp được phối trộn với phụ gia tự nhiên giúp sản phẩm cứng cáp hơn, có thể vận chuyển xa mà không gãy hỏng. Điều này mở ra cơ hội xuất khẩu sang các thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, nơi có nhu cầu lớn về sản phẩm thủ công mang giá trị văn hóa.

Theo các nghệ nhân, nếu được hỗ trợ thêm về thiết kế bao bì, đăng ký thương hiệu và chứng nhận chất lượng, tò he hoàn toàn có thể trở thành một sản phẩm văn hóa xuất khẩu đặc trưng của Việt Nam, tương tự như búp bê Matryoshka của Nga hay quạt giấy Nhật Bản.

Niềm tự hào văn hóa và tiềm năng kinh tế

Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay là làm sao để lớp trẻ tiếp tục theo nghề. Tại Phượng Dực, số người làm tò he thường xuyên chỉ còn khoảng 10, còn lại hơn 40 người chỉ làm theo mùa vụ lễ hội.

Để duy trì nghề, các nghệ nhân đã chủ động liên kết với trường học, đặc biệt là mầm non và tiểu học, tổ chức các lớp trải nghiệm. Trẻ em được trực tiếp nặn tò he, tìm hiểu về văn hóa dân gian và lịch sử làng nghề. Tuy nhiên, các lớp học này vẫn còn mang tính ngắn hạn, thường chỉ diễn ra vào dịp Tết hoặc hội chợ Xuân.

Nghệ nhân Đặng Văn Tiên đề xuất: “Thành phố nên có điểm trưng bày, trình diễn cố định tại công viên, trung tâm thương mại hoặc khu du lịch. Ở đó, nghệ nhân có thể biểu diễn, bán sản phẩm và truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ. Đồng thời, các trường học nên đưa hoạt động nặn tò he vào chương trình ngoại khóa để học sinh hiểu hơn về văn hóa truyền thống”. Theo ông Tiên, nếu được quan tâm đúng mức, nghề tò he không chỉ được bảo tồn mà còn có thể phát triển thành một ngành kinh tế sáng tạo, gắn với du lịch và xuất khẩu sản phẩm văn hóa.

Hiện nay, Hà Nội có hơn 1.350 làng nghề, trong đó hơn 330 làng nghề truyền thống được công nhận. Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều mang trong mình bản sắc văn hóa và bàn tay tài hoa của người thợ. Trong đó, làng nghề tò he Phượng Dực là một biểu tượng đặc biệt, vừa dân dã, vừa tinh xảo, vừa gợi ký ức tuổi thơ, vừa mở ra tiềm năng kinh tế mới.

Sản phẩm tò he của làng hiện đã đạt chuẩn OCOP 4 sao, được trưng bày tại nhiều hội chợ và triển lãm. Dù chỉ còn vài chục người bám nghề, nhưng chính những nghệ nhân như ông Đặng Văn Điền và Đặng Văn Tiên đang góp phần thổi sức sống mới cho nghề, đưa sản phẩm từ sân đình ra sàn thương mại điện tử, từ làng quê vươn ra thế giới. Các nghệ nhân tin rằng, với sự đồng hành của chính quyền, các nhà khoa học và cộng đồng, nghề nặn tò he sẽ không chỉ tồn tại như một ký ức tuổi thơ, mà sẽ tiếp tục phát triển, mang tinh thần Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

“Nghề tò he chỉ có thể tồn tại nhờ tình yêu nghề và sự quan tâm của xã hội. Chúng tôi hy vọng một ngày không xa, những con tò he sẽ được trưng bày tại các bảo tàng, cửa hàng lưu niệm và cả ở nước ngoài như một biểu tượng văn hóa Việt Nam”, nghệ nhân Đặng Văn Tiên chia sẻ.

Từ những con chim, con cò bằng bột nếp gắn với ký ức chợ quê hơn 300 năm trước, nghề nặn tò he ở xã Phượng Dực (TP. Hà Nội) đang được các nghệ nhân làm mới bằng cách kết hợp truyền thống với công nghệ hiện đại. Không chỉ dừng lại ở món đồ chơi dân gian, tò he hôm nay còn mang khát vọng trở thành “cầu nối văn hóa” Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nguyễn Hạnh
Bình luận

Có thể bạn quan tâm