Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, đại dịch Covid -19 tác động nghiêm trọng đối với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân. NHNN trong thời gian qua thực hiện các chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ cũng đã là một trong những Bộ, Ngành vào cuộc rất trách nhiệm.
Cụ thể, ngay từ đầu năm 2020 khi đại dịch Covid xảy ra, trong tổ chức điều hành về lãi suất, NHNN đã giảm 3 lần lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 1,5 - 2%, đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.
Ngoài ra, NHNN cũng đã chỉ đạo, kêu gọi các Tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện giảm các mức lãi suất đối với cả khoản cho vay cũ, cho vay mới. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 1,66% so với trước dịch. Luỹ kế từ 23/01/2020 đến nay, tổng số tiền lãi các TCTD miễn, giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 là khoảng gần 30.000 tỷ đồng. Các TCTD sẽ tiếp tục giảm lãi suất từ nay đến cuối năm 2021. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cũng đã thực hiện giảm phí với mức giảm khoảng hơn 2.000 tỷ đồng đối với khách hàng. Việc giảm lãi suất đã giúp giảm chi phí đầu vào của DN và người dân.
Đối với dư địa chính sách tiền tệ (CSTT), nhiệm vụ của CSTT có hai nhiệm vụ rất quan trọng: Thứ nhất, điều hành CSTT của NHTW để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ thực hiện tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát; Thứ hai, với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, hệ thống các tổ chức tín dụng phải hoạt động làm sao đảm bảo an toàn, sẵn sàng khả năng chi trả cho người dân.
“Chính vì vậy, việc xem xét các giải pháp chính sách công cụ trong thời gian tới, NHNN luôn luôn phải đảm bảo mục tiêu đạt được hai nhiệm vụ trên, đồng thời phải đảm bảo các cân đối lớn của vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách…”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.
Để xác định dư địa còn giảm lãi suất tiếp hay không, NHNN nhận thấy, trong thời gian qua, khi đánh giá thực trạng hoạt động tiền tệ ngân hàng cũng như kinh tế vĩ mô, chúng tôi thấy phía trước năm 2021 khả năng chỉ tiêu đạt được lạm phát dưới 4% theo mục tiêu Quốc hội đặt ra là có thể đạt được vì hiện nay đến hết tháng 10, lạm phát mới chỉ tăng 1,81% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên trong năm 2022 rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn. Thứ nhất, đối với các nền kinh tế của thế giới đã phục hồi khi chiến lược tiêm vacxin bao phủ, bởi vậy giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới có xu hướng gia tăng chỉ số mặt hàng giá ( ví dụ giá xăng dầu trong tháng 9/2021 đã tăng 55,2% so với cuối năm trước…); các nước phát triển lạm phát đã tăng mức cao nhất trong lịch sử (với Mỹ lạm phát đã tăng 5,3% trong tháng 9 vừa qua). Việt Nam là nước có độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên có áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu. Xu hướng lạm phát tăng nhanh khiến nhiều NHTW trên thế giới hiện đã và đang phải dừng, rút dần nới lỏng CSTT. Đến nay đã có 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới. Bởi vậy, theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, “áp lực lạm phát và áp lực điều hành CSTT trong thời gian tới nhìn từ tác động bên ngoài vào là rất lớn”.
Đối với thị trường trong nước, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng, bản thân các tổ chức tín dụng phải dùng nguồn lực tài chính của mình để xử lý nợ xấu.
Do đó, nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng bị suy giảm lúc đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Theo Thống đốc, đây cũng chính là một trong những bài học kinh nghiệm rất lớn từ thời gian trước đây khi tăng trưởng tín dụng cao, chúng ta thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất trong năm 2008, nếu không tính toán cẩn thận cũng đã có rủi ro lạm phát quay trở lại, như trong năm 2011 có thời điểm lên tới 18%.
Về điều hành CSTT thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để những tránh tác động lan truyền. Đồng thời, NHNN cũng sẽ tích cực phối hợp với các Bộ ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, liều lượng hợp lý trên cơ sở vẫn phải đảm bảo các ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát trong thời gian tới, cũng như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.