Vừa qua, trên mạng xã hội Facebook, một trang cá nhân hiện có hơn 5,2 triệu người theo dõi đã đăng tải bài viết với nội dung: “Như thông lệ, sau mỗi lần ông đi công tác và lần này đi Úc 1 tuần, về 1 vali thực phẩm chức năng cho đại gia đình”, kèm hình ảnh cầu thủ nổi tiếng ngồi cạnh một vali chứa đầy các lọ thực phẩm chức năng.
Bài viết nhanh chóng được lan truyền, thu hút hàng nghìn bình luận và chia sẻ. Nhiều trang mạng xã hội sau đó đã đăng lại hình ảnh trên, kèm những dòng bình luận ám chỉ việc làm của cầu thủ có dấu hiệu “mang hàng xách tay số lượng lớn”, thậm chí cho rằng vợ anh, người đăng bài đã vô tình “bóc phốt chồng”.

Ảnh chụp màn hình
Liên quan đến vấn đề này, luật sư Lê Văn Lên, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh đã có những chia sẻ cụ thể về cách gọi “hàng xách tay” và các quy định pháp lý hiện hành, nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ ranh giới giữa quà biếu cá nhân và hàng hóa nhập khẩu kinh doanh.
Ranh giới giữa “quà biếu” và “hàng kinh doanh”
Từ lâu, khái niệm “hàng xách tay” dần trở nên phổ biến trong đời sống. Từ mạng xã hội, các cửa hàng nhỏ lẻ đến những tuyến phố sầm uất, hàng hóa nước ngoài được rao bán với lời quảng cáo “xách tay chính hãng”, “hàng người thân gửi về”. Đằng sau đó là một bức tranh xã hội quen thuộc: Người Việt đi công tác, học tập, du lịch nước ngoài ngày càng nhiều, hàng hóa vì thế cũng đi về qua vali, kiện hành lý, thùng quà…cũng nhiều hơn.
Tuy nhiên, ở góc độ thương mại, “hàng xách tay” nghe có vẻ hợp lý, thì trong pháp luật, thuật ngữ này hoàn toàn không tồn tại. Luật không căn cứ vào tên gọi, mà nhìn vào bản chất: Đó là quà biếu, hành lý cá nhân hay hàng hóa nhập khẩu; được dùng trong phạm vi gia đình hay đưa ra kinh doanh thường xuyên, có lợi nhuận. Khi ranh giới này bị vượt qua, hoạt động “bán hộ người thân” rất dễ trở thành hành vi vi phạm hành chính, thậm chí có thể chạm ngưỡng truy cứu trách nhiệm hình sự.
Pháp luật hiện hành không có quy định cụ thể “bao nhiêu sản phẩm là vượt mức quà biếu”. Thay vào đó, ranh giới giữa quà biếu và hàng kinh doanh được xác định qua ba tiêu chí chính.
Thứ nhất là định mức miễn thuế quà biếu, quà tặng. Theo Nghị định 134/2016/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 182/2025/NĐ-CP, quà biếu giữa cá nhân, tổ chức Việt Nam và nước ngoài chỉ được miễn thuế trong giới hạn trị giá nhất định cho mỗi lần nhận, đồng thời bị khống chế số lần trong năm. Khi vượt định mức, phần hàng hóa dư ra không còn được coi là quà biếu, mà phải thực hiện khai báo, nộp thuế, làm thủ tục hải quan như hàng nhập khẩu thông thường.
Thứ hai là định mức hành lý miễn thuế của người nhập cảnh. Các vật phẩm không thuộc danh mục cấm hoặc có điều kiện được miễn thuế khi tổng trị giá không vượt ngưỡng quy định. Nếu hành lý vượt định mức hoặc được mang về thường xuyên, hàng hóa đó không còn được xem là vật dụng cá nhân mà đã trở thành hàng nhập khẩu phục vụ mục đích kinh doanh.
Thứ ba là dấu hiệu kinh doanh thường xuyên, có mục đích sinh lợi. Theo Luật Quản lý thuế, hộ và cá nhân có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm (và từ năm 2026 là trên 200 triệu đồng/năm nếu không có thay đổi) phải kê khai, nộp thuế. Khi hoạt động “xách tay” có tổ chức, có bảng giá, nhận đặt hàng, quay vòng nhiều lô hàng, tạo doanh thu ổn định, thì bản chất đã là hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu, không còn nằm trong phạm vi “quà biếu”.
Cần quy định chặt chẽ
Trên nền tảng các quy định hiện hành, hành vi “xách tay” có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy mức độ vi phạm. Điều 188 Bộ luật Hình sự năm 2015 và văn bản sửa đổi bổ sung quy định tội buôn lậu khi trị giá hàng hóa từ 100 triệu đồng trở lên, hoặc dưới mức đó nhưng người thực hiện đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc kết án về hành vi tương tự mà chưa được xóa án tích. Song song, Nghị định 98/2020/NĐ-CP, được sửa đổi bởi Nghị định 24/2025/NĐ-CP, quy định các mức phạt, tịch thu tang vật, tước quyền kinh doanh, buộc nộp lại lợi bất hợp pháp tùy theo trị giá hàng hóa và tính chất vi phạm.
Về nghĩa vụ nhãn hàng hóa, Nghị định 43/2017/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 111/2021/NĐ-CP) yêu cầu mọi hàng hóa lưu thông tại Việt Nam phải có nhãn thể hiện bằng tiếng Việt. Hàng nhập khẩu có nhãn gốc bằng tiếng nước ngoài phải dán nhãn phụ tiếng Việt trước khi lưu thông, thể hiện đầy đủ thông tin về tên hàng hóa, xuất xứ, đơn vị chịu trách nhiệm, hướng dẫn sử dụng, cảnh báo an toàn… Việc cố tình không dán nhãn phụ để tạo “cảm giác hàng nội địa” là hành vi vi phạm và sẽ bị xử lý theo quy định.
Đối với mỹ phẩm nhập khẩu, Thông tư 06/2011/TT-BYT (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 34/2025/TT-BYT) yêu cầu sản phẩm chỉ được lưu hành khi có số tiếp nhận Phiếu công bố. Sản phẩm không có số công bố, không nhãn phụ tiếng Việt, hoặc không chứng minh được nguồn nhập hợp pháp là vi phạm pháp luật về mỹ phẩm, nhãn hàng hóa và hải quan.
Với thực phẩm chức năng, Luật An toàn thực phẩm và Nghị định 15/2018/NĐ-CP quy định sản phẩm phải có Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố trước khi lưu hành. Nhãn hàng phải ghi rõ “Thực phẩm bảo vệ sức khỏe” và câu “Sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh”. Kinh doanh thực phẩm bảo vệ sức khỏe nhập khẩu mà không công bố, không dán nhãn phụ, không có đơn vị chịu trách nhiệm tại Việt Nam là hành vi vi phạm pháp luật.
Từ các cơ sở pháp lý đó có thể thấy, “xách tay” không phải vùng trắng. Khi hoạt động vượt định mức, có doanh thu thường xuyên, không khai báo thuế, không công bố sản phẩm, không nhãn phụ, người bán đã bước sang vùng kinh doanh hàng nhập khẩu trái phép.
Chúng ta cần minh bạch hơn trong quy định và cách hiểu pháp lý về "hàng xách tay". Các cơ quan chức năng phải tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, đồng thời nghiên cứu cơ chế quản lý phù hợp cho các giao dịch nhỏ lẻ, hài hòa giữa quyền lợi người dân và yêu cầu quản lý. Mặt khác, người kinh doanh cần chủ động “bước ra vùng sáng”: đăng ký hộ, cá nhân kinh doanh, tuân thủ thủ tục hải quan, dán nhãn phụ, công bố sản phẩm đúng quy định.
Với người tiêu dùng, việc ưu tiên chọn sản phẩm có nhãn phụ tiếng Việt, có đơn vị chịu trách nhiệm tại Việt Nam, có số công bố rõ ràng không chỉ là cách tự bảo vệ quyền lợi, mà còn là hành động góp phần đẩy lùi hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng.
Khi mọi chủ thể, từ cơ quan quản lý, người kinh doanh đến người tiêu dùng cùng hướng tới minh bạch và tuân thủ, “hàng xách tay” sẽ không còn là vùng xám mập mờ, mà được đặt đúng vị trí pháp lý, trở thành phần hợp pháp, lành mạnh của thị trường hàng nhập khẩu
Luật sư Lê Văn Lên cho biết, trong pháp luật, thuật ngữ "hàng xách tay" không tồn tại. Luật không căn cứ vào tên gọi, mà nhìn vào bản chất: Đó là quà biếu, hành lý cá nhân hay hàng hóa nhập khẩu; được dùng trong phạm vi gia đình hay đưa ra kinh doanh thường xuyên, có lợi nhuận.




