Sáng 6/12, Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về Công nghiệp 4.0 theo hình thức trực tiếp và trực tuyến với chủ đề "Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội bền vững thời kỳ hậu COVID-19, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trong kỷ nguyên số" do Ban Kinh tế trung ương tổ chức với sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về công nghiệp 4.0 |
Nhận diện trở ngại phục hồi sau dịch bệnh
Phát biểu mở đầu diễn đàn, ông Trần Tuấn Anh - Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, trước tác động của dịch COVID-19 đặt ra nhu cầu cấp bách là tìm kiếm những giải pháp hiệu quả nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội bền vững thời kỳ hậu COVID-19, hỗ trợ tăng trưởng trong dài hạn, đặc biệt khi Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, quá trình phục hồi kinh tế - xã hội sau dịch Covid 19 và thực hiện CNH, HĐH trên nền tảng Công nghiệp 4.0 đang gặp phải những trở ngại lớn, điển hình như mô hình tăng trưởng chưa dựa nhiều trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. “Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững. Các chính sách phát triển các ngành công nghiệp chậm được cụ thể hóa. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn thiếu một chiến lược phát triển rõ ràng”- ông Trần Tuấn Anh chỉ ra.
Trưởng Ban Kinh tế trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh những thách thức đặt ra sau đại dịch |
Trưởng ban Kinh tế cũng nhấn mạnh, thực tiễn 35 năm qua tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH cần phải tập trung giải quyết để đạt được các mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Cũng chỉ ra những thách thức khi cho rằng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc nhưng được ứng dụng không đồng đều giữa các ngành, bà Mary Hallward-Driemeier - Cố vấn kinh tế cao cấp Ngân hàng Thế giới (WB) nhìn nhận: Chuỗi cung ứng trên toàn cầu đang thay đổi và những nút thắt về thương mại, biến đổi khí hậu đặt ra thách thức lớn. Trong đó, các ngành tự động, cơ giới máy móc sử dụng công nghệ, tự động hóa nhiều hơn, còn ngành da giày, dệt may ít có sự ứng dụng. Do đó, tiền lương thấp và lao động không còn là xu thế cạnh tranh của nhiều nước đang phát triển.
Đặc biệt, COVID-19 góp phần cho định hình việc đầu tư trong tương lai với chuỗi bền vững hơn và tăng tỉ trọng dịch vụ như nghiên cứu phát triển, marketing, hỗ trợ sau bán hàng…"Việt Nam nên tập trung các ngành sản xuất nhưng cũng chú trọng hơn đến các ngành dịch vụ, tiếp tục đầu tư trên phạm vi rộng hơn, như kỹ năng người lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia để nâng cao công nghệ mới, thích ứng hơn với cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển bao trùm, triển khai công nghệ số" - bà Mary Hallward-Driemeier đề xuất.
Cần tầm nhìn, hành động, giải pháp đặc biệt thúc đẩy phục hồi kinh tế
Đưa ra những giải pháp phục hồi kinh tế, Trưởng ban Kinh tế Trần Tuấn Anh nêu cụ thể, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải xác định rõ triết lý phát triển, mô hình và chính sách CNH, HĐH phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển mới của giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Hiện nay, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi căn bản tư duy về CNH, HĐH. “Công nghệ sản xuất kỹ thuật số tiên tiến có thể thúc đẩy phát triển bao trùm và bền vững trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ”, ông Trần Tuấn Anh lưu ý.
Ông Trần Quốc Phương- Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đưa ra Khung chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội bền vững gắn với chiến lược phòng, chống dịch COVID-19. Mục tiêu của chương trình là khôi phục nhanh các chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động và thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2025 khoảng 6,5 - 7%/năm, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung và dài hạn. Trong đó, chính sách hỗ trợ sẽ tập trung thúc đẩy phục hồi, phát triển nhanh sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực quan trọng, chú trọng tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền.
Chia sẻ kinh nghiệm từ Hàn Quốc, ông Yong Hongtaek - Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ thông tin và Truyền thông Hàn Quốc cho biết: Để chuẩn bị đón đầu cơ hội khi trật tự thế giới mới sau COVID-19 được thiết lập, ba định hướng chính được Chính phủ Hàn Quốc chú trọng: Tăng cường đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi số, xây dựng các cụm đổi mới sáng tạo (gọi là đặc khu cho phát triển).
"Để tận dụng hiệu quả các xu hướng trên, cần thiết lập các nền tảng, củng cố tăng cường mối quan hệ thương mại hóa công nghệ, kết nối trường đại học, nhà nghiên cứu, nhà đầu tư và doanh nghiệp…, nâng cao hơn nữa vai trò Chính phủ là hỗ trợ cho các nền tảng này" - ông Yong Hongtaek chia sẻ…
Liên quan đến xu hướng chuyển đổi số, ông Nguyễn Xuân Thắng - Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương cho rằng, chuyển đổi số không chỉ là liều thuốc để chữa lành các vết thương do đại dịch; mà còn là đòn bẩy để phục hồi và tăng trưởng. Có những công nghệ vài năm trước tưởng chừng rất xa xôi, nhưng giờ đây, doanh nghiệp Việt Nam đã có thể làm chủ. “Chuyển đổi số giúp đẩy nhanh xây dựng một nhà nước kiến tạo và một nền hành chính công hiệu quả, giảm thủ tục trung gian và sự phiền nhiễu để phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn…”- ông Nguyễn Xuân Thắng nói.
Phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng: Việc thích ứng và phát triển của mỗi quốc gia dưới tác động của đại dịch COVID-19 trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa hiện nay là vấn đề lớn, vừa cấp bách, vừa lâu dài; đặc biệt là tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng sâu rộng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội.
Chia sẻ với các đại biểu về một số vấn đề như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, già hóa dân số, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường…, Thủ tướng nêu rõ, cùng với dịch bệnh COVID-19, đây là những vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng tới mọi quốc gia và mọi người dân, do đó cần phải có tư duy và cách tiếp cận toàn cầu, mang tính bao trùm, tổng thể, phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển mới; đồng thời phải có tư duy và cách tiếp cận toàn dân, lấy người dân là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực. “Tình hình thế nào thì giải pháp như thế, trong bối cảnh đặc biệt, chúng ta cần có tầm nhìn, hành động và cách làm đặc biệt, phù hợp, linh hoạt”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng cho biết: một số trụ cột như tập trung nâng cao năng lực y tế; bảo đảm an sinh xã hội; hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; xây dựng hạ tầng chiến lược, trong đó có hạ tầng chuyển đổi số; xây dựng và hoàn thiện thể chế; phát huy tối đa nguồn lực con người là trung tâm, chủ thể, là động lực và mục tiêu của sự phát triển…
Theo Thủ tướng, dù trong quá trình hồi phục hay phát triển thì nội lực luôn là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, ngoại lực là quan trọng và đột phá. Nội lực gồm 3 trụ cột chính là con người; thiên thiên; và truyền thống văn hóa - lịch sử với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết, thống nhất của dân tộc. Còn ngoại lực bao gồm công nghệ, vốn, năng lực quản trị và đào tạo nguồn nhân lực…
Bên cạnh đó, Thủ tướng đề cập đến một số định hướng như đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, tạo động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kết hợp chặt chẽ, hài hòa, linh hoạt, hiệu quả giữa các chính sách tài khóa, tiền tệ với các công cụ về thuế, phí, lệ phí, chi ngân sách Nhà nước, lãi suất, tỷ giá, tín dụng, chi phí đầu vào... Thực hiện hiệu quả các chính sách bảo đảm an sinh xã hội dựa trên 3 trụ cột chính là giảm thiểu, khắc phục và phòng ngừa rủi ro để người lao động, người dân có công việc, thu nhập và cuộc sống ổn định.