Theo đánh giá của Cục Điều tiết Điện lực (Bộ Công Thương), trong tuần thứ 11 năm 2024 (từ ngày 11/3 đến 17/3), tình hình cung cấp điện tiếp tục được đảm bảo tốt, phục vụ đủ nhu cầu cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân.
Về phụ tải, trong tuần, sản lượng trung bình ngày là 825,1 triệu kWh (tr.kWh), cao hơn so với tuần trước khoảng 6,2 tr.kWh. Luỹ kế, từ đầu năm đến nay, phụ tải quốc gia tăng trưởng khoảng 10,8% so với cùng kỳ năm 2023 (miền Bắc tăng 9,8%, miền Nam 12,9%, miền Trung 8,3%).
Tuy nhiên công suất cực đại trong tuần đạt 42.581,4 MW, thấp hơn 464,5 MW so với tuần trước.
Nước hồ thủy điện vẫn thấp
Thống kê cho thấy, tình hình nước về các hồ thủy điện trên cả nước vẫn thấp so với trung bình nhiều năm (TBNN). Cụ thể, các hồ thủy điện khu vực miền Bắc có lưu lượng nước chỉ đạt khoảng 25 – 96% TBNN. Miền Trung có 19/27 hồ có diễn biến nước thấp hơn nhiều so với TBNN (từ 17-94% TBNN) 8/27 hồ có nước về tốt (từ 100-267% TBNN), một số hồ có nước về rất tốt như A Lưới, Đak Re, Đak Đrinh. Miền Nam ngoại trừ Đồng Nai 2, Hàm Thuận và Đa Nhim có nước về cao hơn TBNN, các hồ còn lại đều có nước về thấp hơn so với TBNN (từ 29-70% TBNN). Sản lượng theo nước về các ngày trong tuần trung bình khoảng 68,1 tr.kWh/ngày.
Mặc dù sản lượng thủy điện mặc dù khai thác thấp hơn kế hoạch tháng, tuy nhiên lượng nước tích trong các hồ vẫn đang thấp hơn so với kế hoạch do nguyên nhân: Diễn biến nước về kém với sản lượng theo nước về (cả thủy điện nhỏ) các ngày trong tuần trung bình khoảng 68,1 tr.kWh/ngày nhưng đồng thời sản lượng huy động thủy điện trung bình ngày tối thiểu phải khai thác khoảng 90 tr.kWh, trong đó bao gồm các nguồn thủy điện đáp ứng hạ du ~49,7 triệu kWh và các nguồn thủy điện nhỏ ~ 40 tr.kWh (bao gồm hồ dưới 02 ngày và ACT). Vì vậy, để có thể tích nước được các hồ đáp ứng mực nước đề ra, kiến nghị các khu vực hạ du cần sử dụng nguồn tài nguyên nước tiết kiệm và hiệu quả hơn nữa.
Sản lượng thủy điện khai thác trung bình trong tuần thứ 11 năm 2024 đạt khoảng 90,9 tr.kWh.
Nhiệt điện than, năng lượng tái tạo huy động cao
Trong tuần, nguồn nhiệt điện than được huy động với sản lượng trung bình ngày khoảng 525,9 tr.kWh. Hiện tại, đã huy động toàn bộ các tổ máy nhiệt điện than khả dụng trên hệ thống. Tình hình cung cấp than cơ bản được đảm bảo.
Đối với nguồn điện khí được huy động trung bình ngày 74,9 tr.kWh. Nguồn cấp khí từ NCS + Cửu Long đạt khoảng 10 triệu m3/ngày; nguồn Phú Mỹ 3 - Cà Mau: lượng khí cho nhiệt điện khí Cà Mau khoảng 4,4 triệu m3/ngày.
Tuần thứ 11 năm 2024, nguồn điện được huy động linh hoạt |
Đối với nguồn năng lượng tái tạo được huy động theo kế hoạch đã công bố và khả năng phát dự kiến theo năng lượng sơ cấp của nhà máy có xét đến ràng buộc truyền tải của lưới điện và khả năng hấp thụ của hệ thống. Sản lượng trung bình ngày trong tuần huy động đạt khoảng 121 tr.kWh, trong đó nguồn gió là 34,6 tr.kWh.
Tình hình vận hành điện mặt trời nối lưới, điện gió tuần qua
| Sản lượng điện gió (tr.kWh) | Pmax điện gió (MW) | Sản lượng ĐMT nối lưới (tr.kWh) | Pmax ĐMT nối lưới (MW) | Sản lượng điện gió + ĐMT nối lưới (tr.kWh) |
---|---|---|---|---|---|
|
|
|
|
|
|
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| |
|
|
|
|
| |
|
|
Cũng theo báo cáo của Cục Điều tiết Điện lực, lưới điện truyền tải không xảy ra sự cố gây mất tải. Tuy nhiên để tăng khả năng tiết kiệm nguồn thuỷ điện ở miền Bắc, lưới điện truyền tải cung đoạn 500kV Nho Quan - Nghi Sơn duy trì mức xấp xỉ giới hạn cho phép với sản lượng truyền tải trong tuần 37,8÷43,8 tr.kWh, công suất truyền tải tối đa có thời điểm ghi nhận đạt 2.505 MW.