Thị trường hàng hóa hôm nay 24/2: Dầu thô đảo chiều tăng 2%, giá kim loại lao dốc Thị trường hàng hóa hôm nay 25/2 và nhìn lại tuần qua: Giá dầu hồi phục cuối tuần, cà phê tăng giá |
Giá dầu tiếp tục xu hướng giảm
Theo Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV), giá dầu thô hôm nay như sau, kết thúc tuần, giá dầu WTI giảm 0,3% xuống còn 76,32 USD/thùng, trong khi dầu Brent tăng nhẹ 0,18% lên mức 82,82 USD/thùng. Sức ép vĩ mô và dữ liệu tồn kho Mỹ tăng mạnh đã liên tục gây sức ép tới giá, tuy nhiên một số lo ngại về nguồn cung cũng đã hạn chế lực bán, đặc biệt là trong hai phiên cuối tuần.
Các nhà đầu tư có xu hướng thận trọng hơn đối với việc phân bổ dòng tiền vào thị trường rủi ro trong bối cảnh lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ mạnh tay tăng lãi suất hơn dự kiến trước đây, sau loạt dữ liệu cho thấy lạm phát ở nền kinh tế hàng đầu thế giới vẫn còn “nóng”.
Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE, thước đo lạm phát yêu thích của Fed đã tăng 0,6% trong tháng trước, mức tăng lớn nhất trong 6 tháng, đưa chỉ số này lên mức tăng 5,4% trong 12 tháng tính đến tháng 1 và đều vượt kỳ vọng của thị trường. Điều này làm gia tăng rủi ro lãi suất sẽ còn tăng mạnh, với dự báo của các nhà kinh tế cho rằng mức lãi suất đỉnh có thể chạm 5,6% thay vì mức 5,1% như trước đó. Đây là nguyên nhân đã khiến cho đồng USD tăng giá mạnh mẽ so với các loại tiền tệ khác, phản ánh qua việc chỉ số Dollar Index có tuần tăng thứ 4 liên tiếp. Dòng tiền rời khỏi thị trường rủi ro, trong đó có dầu thô trước sức ép từ đồng bạc xanh, và lo ngại việc đẩy chi phí vay lên cao có thể làm suy yếu nền kinh tế và hạn chế sức tiêu thụ.
Báo cáo từ Cơ quan quản lý Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) trong tuần qua cũng cho biết tồn kho dầu thô thương mại và tồn kho nhiên liệu chưng cất tại Mỹ tăng lần lượt 7,6 triệu thùng và 2,7 triệu thùng, đều cao hơn so với mức dự báo cũng đã gây áp lực tới giá dầu. Tuy nhiên, tổng sản phẩm được cung cấp, một thước đo về nhu cầu, đã tăng 4,6% lên 20,22 triệu thùng trong tuần trước đã đem lại tín hiệu tích cực hơn và hạn chế đà giảm của giá.
Bên cạnh đó, một vài rủi ro từ nguồn cung cũng giúp lực mua quay trở lại, đặc biệt là hai phiên cuối tuần. Nga có kế hoạch cắt giảm xuất khẩu dầu từ các cảng phía tây tới 25% trong tháng 3, vượt quá mức cắt giảm sản lượng 500.000 thùng/ngày đã công bố có thể đẩy nguồn cung rơi vào trạng thái thắt chặt.
Trong khi đó, dữ liệu của Công ty dầu khí Baker Hughes cho biết số lượng giàn khoan dầu khí, một chỉ báo sớm về sản lượng trong tương lai, đã giảm 7 giàn xuống còn 753 giàn trong tuần tính đến ngày 24/02. Như vậy, các công ty năng lượng của Mỹ trong tháng 2 đã cắt giảm số giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên nhiều nhất trong một tháng kể từ tháng 6/2020, với số lượng giàn khoan khí đốt giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4. Không chỉ dầu thô, nguồn cung khí đốt cũng thu hẹp hơn đã đẩy giá tăng hơn 8% trong tuần qua lên 2,55 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh.
Mới đây, Giám đốc điều hành Tập đoàn dầu khí Ba Lan PKN Orlen, ông Daniel Obajtek thông báo Nga đã tạm dừng cung cấp dầu cho Ba Lan qua đường ống dẫn Druzhba trong bối cảnh căng thẳng kéo dài tại khu vực Biển Đen, đồng thời cho biết thêm rằng nhà máy lọc dầu Ba Lan sẽ khai thác các nguồn khác để lấp đầy khoảng trống.
Trước đó, vào ngày thứ Sáu, Liên minh châu Âu đã thông qua gói trừng phạt thứ 10 đối với Nga, bao gồm các hạn chế xuất khẩu chặt chẽ hơn đối với hàng hóa cho mục đích quân sự cũng như các biện pháp hỗ trợ chiến tranh. Rủi ro địa chính trị gia tăng cũng đã kéo giá dầu phục hồi trong phiên cuối tuần, và có thể sẽ tiếp tục đà tăng trong tuần này.
Giá kim loại lao dốc do lo ngại áp lực lãi suất
Thị trường kim loại chìm trong sắc đỏ khi sức ép đến từ đồng USD đè nặng lên giá các mặt hàng. Đáng chú ý, giá bạc lao dốc 4,17% về 20,81 USD/ounce, và là mức thấp nhất trong gần 4 tháng.
Giá các mặt hàng kim loại quý tăng nhẹ trong các phiên giao dịch đầu tuần, khi các nhà đầu tư phân bổ vốn vào các loại tài sản an toàn trước sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Mỹ. Tuy nhiên, sức mua cạn dần từ các phiên giữa tuần bởi những lo ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) mạnh tay thắt chặt chính sách tiền tệ.
Biên bản cuộc họp tháng 1 được công bố vào giữa tuần trước cho thấy các quan chức Fed vẫn kiên định với mục tiêu hạ nhiệt lạm phát, và vẫn sẽ còn nhiều đợt tăng lãi suất trong thời gian tới. Điều này đã khiến cho đồng USD hồi phục trở lại. Sức ép bán thực sự đối với thị trường kim loại xuất hiện vào trong phiên cuối tuần, sau khi một thước đo lạm phát quan trọng là Chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) được công bố bất ngờ tăng trở lại.
Các chỉ số PCE và PCE lõi (loại trừ năng lượng và thực phẩm) đều cao hơn tháng 12 và cả ước tính trước đó. Trong tháng 1, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) đều tiêu cực hơn so với dự báo, cho thấy áp lực lạm phát vẫn còn, và Fed có thể sẽ duy trì tăng lãi suất.
Công cụ theo dõi lãi suất của CME cho thấy có 27% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản, và lãi suất có thể chạm đỉnh ở mức 5,25 - 5,50%, cao hơn so với kỳ vọng trước đó là 5,125%. Các thông tin này đã khiến cho đồng USD bật tăng mạnh mẽ lên 105,21 điểm, mức cao nhất kể từ đầu tháng 1 tới nay.
Đà tăng của đồng USD cũng gây áp lực đáng kể lên nhóm kim loại cơ bản. Giá đồng giảm 3,81% trong tuần trước, đánh mất mốc 4 USD/pound, về 3,95 USD. Lập trường cứng rắn của Fed khiến các nhà đầu tư lo ngại về nguy cơ suy thoái, và khiến bức tranh tiêu thụ đồng cũng trở nên tiêu cực hơn. Tại Trung Quốc, nhu cầu đối với đồng vẫn yếu, phản ánh qua số liệu tồn kho liên tục tăng. Dự trữ đồng trên Sở Giao dịch Thượng Hải đã chạm mức 139.843 tấn, cao nhất kể từ tháng 6/2021.
Bên cạnh đó, vì được niêm yết trên Sở COMEX tại Mỹ, nên giá đồng cũng phản ứng mạnh hơn với các tin tức và yếu tố dòng tiền liên thị trường tại Mỹ. Giá đồng giảm mạnh trong phiên thứ sáu tuần trước khi mà các nhà đầu tư rút bớt vốn khỏi các thị trường đầu tư tài chính do nhu cầu nắm giữ tiền mặt cao hơn, trong đó có thị trường đồng.
Trái lại, giá quặng sắt vẫn duy trì được sắc xanh, với mức tăng nhẹ 0,42% lên 125,26 USD/tấn. Dù mức giá đóng cửa tuần tăng so với tuần trước, nhưng giá quặng sắt đang đi ngang trong biên độ 120 – 130 USD/tấn gần hai tháng nay. Thanh khoản đang có dấu hiệu giảm nhẹ, phản ánh việc các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào triển vọng tiêu thụ sắt thép và sự hồi phục của thị trường bất động sản Trung Quốc. Tuy nhiên, tâm lý thận trọng cũng gia tăng trước nguy cơ suy thoái kinh tế, vì thế giá quặng sắt vẫn chưa thể thoát khỏi xu hướng đi ngang.
Giá nông sản giảm mạnh do nguồn cung nới lỏng
Kết thúc phiên giao dịch trong tuần kết thúc vào ngày 26/02, giá ngô đã sụt giảm mạnh hơn 4%, ghi nhận tuần thứ 2 liên tiếp đóng cửa trong sắc đỏ. Sau phiên đầu tuần tăng nhẹ, lực bán đã được đẩy mạnh và khiến giá suy yếu. Triển vọng nguồn cung nới lỏng hơn là nguyên nhân lý giải cho diễn biến giá trong tuần trước.
Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ USDA dự báo diện tích gieo trồng ngô niên vụ 2022/23 của Mỹ sẽ đạt mức 91,0 triệu mẫu, cao hơn mức 90,9 triệu mẫu dự đoán của thị trường và mức 88.6 triệu mẫu trong cùng kỳ năm ngoái. Tồn kho ngô niên vụ 2023/24 cũng được dự báo sẽ đạt mức 1,8 tỷ giạ, cao hơn mức dự đoán và cao hơn gần 50% so với niên vụ 2022/23. Việc tồn kho tăng mạnh cho thấy USDA cũng đánh giá xuất khẩu ngô Mỹ sẽ thấp hơn trong niên vụ mới. Bên cạnh đó, số liệu trong báo cáo Giao hàng xuất khẩu cho thấy, tổng khối lượng bán ngô niên vụ 22/23 của Mỹ đã giảm mạnh gần 20% so với tuần trước. Cùng với đó, bán hàng ngô niên vụ 23/24 cũng giảm tới hơn 74%. Đây là dấu hiệu cho thấy nhu cầu nhập khẩu ngô của Mỹ đang chững lại và là yếu tố cũng góp phần gây sức ép lên giá. Trong tuần này, ngô có thể tiếp tục suy yếu và tiến về vùng hỗ trợ 638 cents.
Lúa mì cũng đã sụt giảm mạnh 7% trong tuần trước. Với 3 trên 4 phiên đóng cửa trong sắc đỏ, phe bán đã hoàn toàn áp đảo thị trường. Kỳ vọng nguồn cung nới lỏng hơn cũng là nguyên nhân đã khiến giá chịu áp lực bán.
USDA cũng đã dự đoán diện tích gieo trồng lúa mì niên vụ 2023/24 của Mỹ sẽ đạt mức 49,5 triệu mẫu, cao hơn nhiều so với mức 48,7 triệu mẫu dự đoán của thị trường và mức 45,7 triệu mẫu trong niên vụ trước. Đối với tồn kho lúa mì, USDA dự báo con số này sẽ đạt mức 608 triệu giạ, tăng 7% so với năm ngoái. Bên cạnh đó, tỉ lệ lúa mì đạt chất lượng tốt – tuyệt vời của Pháp trong tuần kết thúc ngày 20/02 đạt 95%, cao hơn so với mức 93% của tuần trước cũng như cùng kỳ năm ngoái. Với việc chất lượng lúa mì mềm tiếp tục được cải thiện trong tuần thứ hai liên tiếp, đợt khô hạn kỷ lục được đánh giá vẫn chưa gây ra áp lực cho cây trồng. Đây là những thông chính tác động gây sức ép lên giá.
Giá nông sản thế giới có thể tiếp tục điều chỉnh giảm
Theo MXV, thị trường hàng hoá sẽ giao dịch rất sôi động trong tuần này, đặc biệt ở nhóm nông sản khi thị trường tiếp tục hấp thụ các số liệu diện tích mùa vụ tại Mỹ. Chỉ còn hơn 1 tháng nữa là nông dân Mỹ sẽ bước vào giai đoạn trồng đậu tương, ngô và lúa mì, với sản lượng lớn hàng đầu thế giới. Do đó, thời tiết cũng là thông tin cực kỳ quan trọng, mà các nhà đầu tư cần chú ý theo sát trong tuần này. Dự báo những cơn mưa và tuyết sẽ cung cấp độ ẩm đất ở các vùng sản xuất chính, có thể gây áp lực lên giá nông sản trong các phiên tới.
Trên thị trường nội địa, ghi nhận trong sáng nay, giá chào bán khô đậu tương Mỹ tại Cảng Cái Lân giảm về mức 15.550 đồng/kg đối với kỳ hạn giao tháng 03; đối với kỳ hạn giao các tháng quý II, giá đậu tương ở mức 14.850 đồng/kg. Tương tự, giá ngô Mỹ chào bán tại cảng cũng giảm nhẹ về mức 8.600 đồng/kg cho kỳ hạn giao tháng 04,05. Việc giá nông sản thế giới liên tục điều chỉnh giảm sẽ là cơ hội để các nhà máy thức ăn chăn nuôi trong nước nhập khẩu nguyên liệu đầu vào với mức giá thích hợp, từ đó hạ giá thành sản xuất.
Cũng trong sáng nay, giá heo hơi trên toàn quốc ghi nhận giao động đi ngang trong khoảng 48.000 – 53.000 đồng/kg; chưa có sự thay đổi nhiều so với đầu tuần trước đó.
Giá một số hàng hóa khác
Bảng giá nông sản
BẢNG GIÁ NÔNG SẢN KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 24/02/2023 |
Lúa mỳ Kansas Tháng 03/23 -2.32% 841.75 USD/Bushels Ngô Tháng 03/23 -1.55% 650 USD/Bushels Dầu Đậu Tương Tháng 03/23 -1.5% 61.11 USD/lbs Khô Đậu Tương Tháng 03/23 0.81% 497.1 USD/Tons Gạo thô Tháng 03/23 -0.06% 16.8 USD/lbs Đậu Tương Tháng 03/23 -0.34% 1529 USD/Bushels Lúa Mỳ Chicago Tháng 03/23 -4.06% 708.25 USD/Bushels |
Bảng giá kim loại
BẢNG GIÁ KIM LOẠI KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 24/02/2023 |
Đồng Tháng 03/23 -2.64% 3.952 USD/lbs Quặng sắt Tháng 02/23 -0.5% 126.13 USD/Tonnes Bạch kim Tháng 03/23 -3.98% 907.6 USD/Troy ounces Bạc Tháng 03/23 -2.33% 20.81 USD/Troy ounces Nhôm LME Tháng -2.53% 2335.5 USD/Tonnes Đồng LME Tháng -2.11% 8716.5 USD/Tonnes Chì LME Tháng 0.73% 2071 USD/Tonnes Nickel LME Tháng -3.28% 24554 USD/Tonnes Thiếc LME Tháng -1.99% 25651 USD/Tonnes Kẽm LME Tháng -2.32% 2964 USD/Tonnes |
Bảng giá nguyên liệu công nghiệp
BẢNG GIÁ NGUYÊN LIỆU CÔNG NGHIỆP KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 23/02/2023 |
Ca cao Tháng 03/23 -0.33% 2729 USD/Tonnes Bông sợi Tháng 03/23 0.19% 82.41 USD/lbs Cà phê Arabica Tháng 03/23 -2.93% 193.65 USD/pounds Cà phê Robusta Tháng 03/23 -1.79% 2141 USD/Tonnes Dầu cọ thô Tháng 03/23 2.22% 4190 MYR/metrics Tons Đường trắng Tháng 05/23 1.36% 574.7 USD/Tonnes Đường 11 Tháng 03/23 1.36% 21.58 USD/Pounds Cao su RSS3 Tháng 03/23 0% 210 JPY/kg Cao su TSR20 Tháng 03/23 0% 139.6 USD/Tonnes |