Thị trường hàng hoá hôm nay 9/5: Quặng sắt tăng 4%, dầu thô tăng 2% Thị trường hàng hoá hôm nay 10/5: Giá dầu tăng ngày thứ 3; Cà phê Robusta giảm 6 USD |
Giá dầu giảm trước nhiều thông tin vĩ mô và cung cầu trái chiều
Theo Sở Giao dịch hàng hoá Việt Nam (MXV), hôm nay, sắc đỏ quay lại thị trường dầu sau ba phiên tăng liên tiếp với giá dầu thô WTI giảm 1,56% về 72,56 USD/thùng, giá dầu thô Brent đóng cửa giảm 1,33% về 76,41 USD/thùng.
Sức ép bán xuất hiện ngay từ đầu phiên sáng khi báo cáo của Viện Dầu khí Mỹ (API) cho biết tồn kho dầu thô thương mại Mỹ tăng 3,6 triệu thùng, sau ba tuần giảm liên tiếp. Thị trường sau đó hướng sự chú ý vào Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 của Mỹ.
Phần lớn các chỉ số CPI được công bố đều không tiêu cực hơn so với dự đoán trước đó. Cụ thể, CPI và CPI lõi (trừ năng lượng và thực phẩm) đều tăng 0,4% so với tháng 3. Đáng chú ý, CPI tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với dự báo 0,1%.
Các số liệu cho thấy lạm phát hạ nhiệt và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ kết thúc chu kỳ tăng lãi suất. Đồng USD vì thế cũng chịu sức ép, phản ánh qua việc chỉ số Dollar Index giảm về 101,48 điểm.
Giá dầu hồi phục nhẹ với kỳ vọng tiêu thụ sẽ được cải thiện khi nền kinh tế sẽ bớt chịu áp lực do các đợt tăng lãi suất. Tuy nhiên, sau đó sức bán quay trở lại thị trường khi các số liệu trái chiều từ báo cáo tuần của Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) được công bố.
Tồn kho dầu thô thương mại tăng 3 triệu thùng, cao hơn so với dự báo giảm 1 triệu thùng trước đó là yếu tố chính khiến cho giá chịu sức ép trong phiên hôm qua. Xuất khẩu dầu thô của Mỹ cũng giảm gần 40% trong tuần kết thúc ngày 05/05 về 2,7 triệu thùng/ngày. Điều này có thể phản ánh nhu cầu tiêu thụ dầu từ các đối tác của Mỹ đang yếu đi.
Mặc dù vậy, giá dầu phục hồi vào cuối phiên khi các nhà đầu tư đánh giá lại các tín hiệu tích cực khác từ báo cáo EIA. Tồn kho xăng và dầu trong tuần kết thúc ngày 05/05 giảm lần lượt 3,2 và 4,2 triệu thùng. Bên cạnh đó, tổng sản phẩm được cung cấp, thước đo phản ánh tiêu thụ thực tế, tăng mạnh lên 20,1 triệu thùng/ngày, và cao hơn mức trung bình bốn tuần liên tiếp là 19,9 triệu thùng. Sự sụt giảm của giá dầu thô đã bị hạn chế bởi nhu cầu nhiên liệu tăng vọt trước mùa lái xe cao điểm vào mùa hè.
Một số thông tin khác mà các nhà đầu tư cần theo dõi trong thời gian tới bao gồm sản lượng dầu của Venezuela và phản ứng của Mỹ đối với đợt cắt giảm gần đây của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC+). Tập đoàn Chevron của Mỹ đang có kế hoạch thúc đẩy sản lượng dầu thô tại Venezuela lên tới 160.000 thùng/ngày trong năm nay và khoảng 200.000 thùng/ngày vào năm 2024.
Mới đây, Ủy ban Tư pháp Hạ viện đã được thiết lập để xem xét một dự luật để gây áp lực và tác động OPEC ngừng thực hiện cắt giảm sản lượng, bởi điều này có thể ảnh hưởng đến người dẫn Mỹ, vốn đang có nhu cầu đi lại cao trong thời điểm này.
Sắc đỏ áp đảo bảng giá kim loại
Kết thúc phiên giao dịch ngày 10/05, sắc đỏ áp đảo bảng giá thị trường kim loại. Đối với nhóm kim loại quý, trong khi bạch kim vẫn duy trì đà tăng giá với mức tăng 0,28% lên 1.119,1 USD/ounce, thì giá bạc cho thấy sự suy yếu. Giá bạc đánh mất 0,93% về 25,65 USD/ounce.
Tâm điểm của thị trường trong phiên hôm qua hướng về báo cáo lạm phát của Mỹ. Theo dữ liệu từ Cục Thống kê Lao động Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 4 của Mỹ tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn so với dự báo tăng 5,0% của giới phân tích và đây là mức tăng hàng năm nhỏ nhất kể từ tháng 4/2021.
Trong khi chỉ số CPI lõi trong tháng 4, thước đo lạm phát được Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ (Fed) quan tâm hơn, không thay đổi so với mức tăng 0,4% của tháng 3. So với cùng kỳ năm ngoái, CPI lõi tăng 5,5% trong tháng 4 sau khi tăng 5,6% hồi tháng 3, cả hai chỉ số CPI lõi đều cho thấy lạm phát đang có dấu hiệu tăng chậm lại.
Áp lực lạm phát giảm bớt giúp củng cố tâm lý nhà đầu tư nhờ kỳ vọng Fed có thể tạm ngừng chu kỳ tăng lãi suất. Dòng tiền được phân bổ quay trở lại các thị trường rủi ro như thị trường chứng khoán và thị trường tiền điện tử. Điều này khiến dòng vốn chảy vào thị trường kim loại quý giảm bớt và gây sức ép tới giá.
Tuy nhiên bạch kim vẫn nhận được lực mua tích cực do lo ngại nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Hơn nữa, bạch kim có vai trò công nghiệp lấn át, triển vọng Fed ngừng tăng lãi suất có thể tránh đưa nền kinh tế rơi vào suy thoái đã giúp củng cố triển vọng tiêu thụ mặt hàng này.
Đối với nhóm kim loại cơ bản, giá đồng COMEX giảm phiên thứ hai liên tiếp khi để mất 1,55% về mức 3,84 USD/pound. Bất chấp sự suy yếu của đồng USD, giá đồng vẫn không được hỗ trợ, đáng chú ý, trong hơn 2 tuần gần đây, giá đồng vẫn liên tục dao động thận trọng trong khoảng đi ngang 3,82 – 3,92 USD/pound do thiếu động lực bứt phá.
Một mặt, triển vọng nhu cầu phục hồi tại Trung Quốc là yếu tố hỗ trợ cho đà tăng của giá đồng từ đầu năm, tuy nhiên, dữ liệu kinh tế gần đây cho thấy đà tăng trưởng của Trung Quốc đang dần chững lại, hoạt động sản xuất suy yếu trong khi tăng trưởng xuất nhập khẩu mất đà, điều này làm suy yếu triển vọng tiêu thụ các mặt hàng kim loại cơ bản, trong đó có đồng.
Mặt khác, trong bối cảnh triển vọng tiêu thụ đang mờ nhạt đi trong thời gian gần đây, thì nguồn cung đồng lại tương đối ổn định, khiến giá đồng phải chịu sức ép.
Sản lượng đồng tháng 3 của Peru, quốc gia sản xuất đồng lớn thứ hai thế giới, đã tăng 20,4% so với cùng kỳ năm ngoái lên mức 219.275 tấn, theo dữ liệu từ Bộ năng lượng và mỏ Peru. Ngoài ra, tồn kho đồng trên Sở LME đã liên tục tăng sau khi chạm mức thấp kỷ lục kể từ tháng 8/2005 vào ngày 13/04, khi chỉ còn 51.550 tấn, hiện tại tồn kho đã tăng gần 50% lên mức 71.657 tấn.
Trái lại, giá quặng sắt có phiên phục hồi tích cực với mức tăng 1,26% lên 103,3 USD/tấn, nhờ kỳ vọng nhu cầu hồi phục tại Trung Quốc. Công ty tư vấn Mysteel báo cáo rằng sáu nhà máy thép ở tỉnh Sơn Tây thuộc phía Bắc Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất thép trong hai tuần tới, do tỷ suất lợi suất tiếp tục được cải thiện. Các nhà phân tích của Mysteel cho biết điều này có thể làm tăng tỷ lệ sử dụng công suất lò cao hàng ngày lên mức 89% từ 74,8% vào ngày 9/5. Triển vọng ngành thép khởi sắc đã thúc đẩy sức mua trên thị trường quặng sắt, do sắt là nguyên liệu quan trọng để sản xuất thép.
Giá thép nội địa giảm lần thứ 3 liên tiếp
Trên thị trường nội địa, hôm qua (10/05), giá thép xây dựng bất ngờ được điều chỉnh giảm sau 2 tuần đi ngang. Cụ thể, thép thanh D10 CB300 đồng loạt giảm khoảng 100 đồng/kg trên phạm vi toàn quốc. Theo đó, giá thép này dao động trong khoảng 15.150 -15.290 đồng/kg. Trong khi đó, thép cuộn CB240 duy trì ổn định quanh mức 14.820 – 14.900 đồng/kg.
Như vậy, giá thép của nhiều thương hiệu trong nước đã có lần giảm thứ ba liên tiếp sau chuỗi tăng 5 lần trước đó. Hiện thép cuộn của Hòa Phát miền Bắc thấp hơn đầu năm khoảng 20.000 đồng/tấn, ngược lại thép cây cao hơn 530.000 đồng/tấn.
Theo MXV, đà giảm của giá thép trong nước có thể sẽ còn nối dài lại do sức ép từ giá nguyên vật liệu đi xuống trong khi nhu cầu tiêu thụ trong ngành xây dựng, bất động sản vẫn chưa cho thấy dấu hiệu bứt phá.
Giá một số hàng hoá khác
Bảng giá nông sản
BẢNG GIÁ NÔNG SẢN KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 10/05/2023 |
Lúa mỳ Kansas Tháng 05/23 -0.11% 905.5 USD/Bushels Ngô Tháng 05/23 0.51% 645.5 USD/Bushels Dầu Đậu Tương Tháng 05/23 -1.65% 51.85 USD/lbs Khô Đậu Tương Tháng 05/23 0.36% 417.9 USD/Tons Gạo thô Tháng 05/23 0.78% 18.145 USD/lbs Đậu Tương Tháng 05/23 -1.05% 1436.5 USD/Bushels Lúa Mỳ Chicago Tháng 05/23 -0.36% 628.25 USD/Bushels |
Bảng giá kim loại
BẢNG GIÁ KIM LOẠI KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 10/05/2023 |
Đồng Tháng 05/23 -1.57% 3.828 USD/lbs Quặng sắt Tháng 05/23 1.06% 106.32 USD/Tonnes Bạch kim Tháng 05/23 0.46% 1122.2 USD/Troy ounces Bạc Tháng 05/23 -0.92% 25.461 USD/Troy ounces Nhôm LME Tháng -2.24% 2268 USD/Tonnes Đồng LME Tháng -1.36% 8475 USD/Tonnes Chì LME Tháng -0.02% 2136.5 USD/Tonnes Nickel LME Tháng -4.15% 22531 USD/Tonnes Thiếc LME Tháng -0.57% 25846 USD/Tonnes Kẽm LME Tháng -1.89% 2623.5 USD/Tonnes |
Bảng giá nguyên liệu công nghiệp
BẢNG GIÁ NGUYÊN LIỆU CÔNG NGHIỆP KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 10/05/2023 |
Ca cao Tháng 05/23 0.96% 3260 USD/Tonnes Bông sợi Tháng 07/23 -0.28% 80.76 USD/lbs Cà phê Arabica Tháng 05/23 -0.29% 187.45 USD/pounds Cà phê Robusta Tháng 05/23 0.81% 2622 USD/Tonnes Dầu cọ thô Tháng 05/23 -2.96% 3930 MYR/metrics Tons Đường trắng Tháng 08/23 1.28% 718.2 USD/Tonnes Đường 11 Tháng 07/23 1.79% 26.66 USD/Pounds Cao su RSS3 Tháng 05/23 -1.03% 202.2 JPY/kg Cao su TSR20 Tháng 06/23 -0.5% 138.3 USD/Tonnes |