Thị trường các-bon: Cần “van điều tiết” để cân bằng kinh tế và khí hậu

Đánh giá tác động là bước khởi đầu quan trọng giúp Việt Nam xây dựng thị trường các - bon minh bạch, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu giảm phát thải.

Xây dựng nền tảng chính sách: Từ đánh giá tác động đến hệ thống đăng ký quốc gia

Nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách quản lý và vận hành thị trường các - bon minh bạch, hiệu quả, Bộ Nông nghiệp và Môi trường với sự hỗ trợ của Chương trình Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Đông Nam Á (ETP) đã triển khai nghiên cứu, thử nghiệm mô hình và xây dựng các kịch bản phát triển thị trường. Đây là bước đi nền tảng giúp Việt Nam có căn cứ thực tiễn trong việc đưa ra quyết định chính sách, hướng tới vận hành thị trường các - bon theo chuẩn mực quốc tế.

Các chuyên gia và đại diện các Bộ, ngành chụp ảnh lưu niệm tại hội thảo tổng kết hỗ trợ kỹ thuật

Các chuyên gia và đại diện các Bộ, ngành chụp ảnh lưu niệm tại hội thảo tổng kết hỗ trợ kỹ thuật

Sau một năm triển khai (9/2024–9/2025), Hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các - bon tại Việt Nam” đã hoàn thành, cung cấp các thông tin đầu vào quan trọng phục vụ thiết kế hệ thống quản lý minh bạch, hiệu quả, sẵn sàng cho giai đoạn vận hành chính thức.

Theo ông Nguyễn Nam Hưng, Phòng Thị trường carbon – Cục Biến đổi khí hậu, Hệ thống đăng ký quốc gia về tín chỉ các - bon là “xương sống” của thị trường, giúp kết nối, giám sát và quản lý toàn bộ hoạt động giao dịch và bù trừ phát thải trong nước, đồng thời tương thích với các cơ chế quốc tế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris.

Trong giai đoạn đầu, Việt Nam sẽ tập trung xây dựng hệ thống phục vụ nhu cầu nội địa để bảo đảm tính chủ động, từng bước hoàn thiện khung thể chế và kỹ thuật. Các doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch phát thải dựa trên kết quả kiểm kê khí nhà kính và kế hoạch sản xuất. Nếu vượt hạn ngạch, doanh nghiệp có thể mua bán, bù trừ bằng tín chỉ hoặc vay hạn ngạch giữa các kỳ phát thải.

Đáng chú ý, tỷ lệ cho phép sử dụng tín chỉ các - bon để bù trừ được nâng lên 30%, giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải mà vẫn duy trì hiệu quả kinh tế. Toàn bộ hoạt động nộp, trả và xác nhận giao dịch sẽ được thực hiện trên Hệ thống đăng ký quốc gia, trong khi sàn giao dịch các - bon do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý sẽ là nơi diễn ra các giao dịch thực tế.

Tiêu chuẩn tín chỉ nội địa – nền tảng cho thị trường trong nước

Cục Biến đổi khí hậu xác định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là xây dựng cơ chế tín chỉ các - bon trong nước, hướng tới phát triển tiêu chuẩn tín chỉ nội địa (Domestic Carbon Standard). Mô hình này cho phép hình thành các dự án giảm phát thải phù hợp với đặc thù Việt Nam như nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng tái tạo hay xử lý chất thải.

Theo ông Hưng, việc chủ động phát triển tiêu chuẩn nội địa giúp bảo đảm chất lượng, tính minh bạch và khả năng bù trừ thực chất, đồng thời vẫn tuân thủ hai nguyên tắc quốc tế: tính bổ sung (additionality) và tính bền vững (sustainability).

Hỗ trợ kỹ thuật đã tổ chức nhiều khóa tập huấn cho các doanh nghiệp thuộc nhóm phát thải lớn

Hỗ trợ kỹ thuật đã tổ chức nhiều khóa tập huấn cho các doanh nghiệp thuộc nhóm phát thải lớn 

Tuy nhiên, khi tham gia các cơ chế quốc tế theo Điều 6, Việt Nam cần cơ chế giới hạn tỷ lệ chuyển nhượng tín chỉ các - bon ra quốc tế, bởi việc bán tín chỉ sẽ làm giảm phần đóng góp vào kết quả giảm phát thải quốc gia (NDC), ảnh hưởng đến cam kết giảm 5,8% vào năm 2030.

Cục cũng lưu ý, ngành hàng không là lĩnh vực có nhu cầu tín chỉ lớn do phải tuân thủ cơ chế CORSIA của ICAO. Nếu không có nguồn tín chỉ nội địa đủ mạnh, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải mua tín chỉ quốc tế với giá cao, gây thiệt hại tài chính đáng kể.

Đánh giá tác động – bước khởi đầu cho một thị trường carbon minh bạch

Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm/Chuyên gia về chính sách khí hậu, GreenCIC cho biết: Đánh giá tác động (RIA) là bước nền tảng để hình thành bất kỳ chính sách các - bon nào. Chỉ khi nắm rõ tác động của các phương án khác nhau, cơ quan quản lý mới có thể chọn được kịch bản tối ưu, vừa giảm thiểu rủi ro, vừa mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế.

Ở những quốc gia vận hành thị trường các - bon thành công, như Trung Quốc, họ không chỉ sử dụng một mô hình duy nhất, mà kết hợp nhiều mô hình đánh giá khác nhau để có cái nhìn tổng thể về tác động của chính sách”, bà Loan cho biết.

Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm/Chuyên gia về chính sách khí hậu, GreenCIC

Bà Nguyễn Hồng Loan, Trưởng nhóm/Chuyên gia về chính sách khí hậu, GreenCIC

Tuy nhiên, Việt Nam đang gặp khó khăn đặc thù về dữ liệu. Trong khi Hàn Quốc và châu Âu có đến 5 năm thu thập báo cáo kiểm kê khí nhà kính trước khi phân bổ hạn ngạch, thì Việt Nam đến năm 2025 mới có báo cáo kiểm kê đầu tiên và sẽ vận hành thị trường ngay sau đó. Điều này khiến việc đánh giá tác động trở nên thách thức do thiếu dữ liệu đầu vào đủ dài và đủ sâu.

Để khắc phục, nhóm nghiên cứu đã phối hợp với các tổ chức quốc tế, chuyên gia trong nước và Tổng cục Thống kê, sử dụng dữ liệu doanh nghiệp các năm trước nhằm xây dựng mô hình đánh giá có độ tin cậy cao nhất trong điều kiện hiện nay.

Theo bà Loan, đánh giá tác động không chỉ phục vụ cơ quan quản lý mà còn mang lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp có thể xác định vai trò trong thị trường các - bon là người mua hay người bán. Đồng thời, tính toán chiến lược đầu tư hoặc mua tín chỉ sao cho tối ưu chi phí; Xây dựng lộ trình công nghệ, phù hợp với khả năng tài chính và thời gian chuyển đổi.

Đây là tiền đề giúp doanh nghiệp chủ động tham gia thị trường các - bon trong nước và quốc tế, thay vì bị động chạy theo chính sách”- bà Loan nhấn mạnh.

Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới tăng trưởng hai con số, theo bà Loan, chính sách các - bon cần đạt được điểm cân bằng giữa hai mục tiêu vừa đảm bảo phát triển kinh tế, vừa thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính.

Bà Loan cho rằng, nếu ràng buộc phát thải quá chặt, nền kinh tế có thể bị kìm hãm, nhưng nếu quá lỏng, chi phí môi trường sẽ bùng phát trong tương lai.

Đánh giá tác động giúp Nhà nước có cái nhìn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để điều tiết chính sách hài hòa giữa kinh tế và khí hậu”, bà nhấn mạnh.

Trước câu hỏi về lựa chọn kịch bản, bà Loan cho rằng giai đoạn đầu cần độ linh hoạt nhất định. Việt Nam nên theo đuổi mục tiêu NDC có điều kiện, tức là ngưỡng thấp nhất trong cam kết quốc tế để tạo “khoảng đệm” cho doanh nghiệp làm quen và chuyển đổi công nghệ.

Việc cho phép sử dụng tín chỉ các - bon để bù trừ ở mức hợp lý giúp doanh nghiệp không phải đầu tư công nghệ lớn ngay lập tức, tận dụng được nguồn tín chỉ sẵn có từ các cơ chế CDM và tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, về lâu dài, tỷ lệ bù trừ cần giảm dần để buộc các ngành phát thải lớn như nhiệt điện, thép, xi măng phải đầu tư thực chất vào công nghệ sạch.

Các nước đều đi theo hướng giảm dần tỷ lệ bù trừ, để đảm bảo thị trường các - bon phản ánh đúng nỗ lực giảm phát thải thực sự”, bà Loan nói.

Tuy nhiên để tránh lạm dụng tín chỉ các - bon, bà Loan đề xuất Nhà nước nên áp dụng các “van điều tiết” như: Giá trần – giá sàn; Cơ chế đấu giá hạn ngạch; Dự trữ tín chỉ trong nước; Giám sát giao dịch theo thời gian thực.

Khi đó, giá các - bon sẽ phản ánh đúng chi phí môi trường, buộc doanh nghiệp cân nhắc giữa việc trả tiền để phát thải hay đầu tư để cắt giảm.

Hơn 200 doanh nghiệp thuộc các ngành phát thải lớn sẽ tham gia thị trường các - bon ngay giai đoạn đầu

Hơn 200 doanh nghiệp thuộc các ngành phát thải lớn sẽ tham gia thị trường các - bon ngay giai đoạn đầu

Theo bà Loan, Việt Nam hiện có khoảng 2.000 cơ sở thuộc diện phải kiểm kê khí nhà kính, trong đó hơn 200 doanh nghiệp thuộc các ngành phát thải lớn sẽ tham gia thị trường các - bon ngay giai đoạn đầu.

Điều quan trọng nhất lúc này là doanh nghiệp phải hoàn thiện dữ liệu kiểm kê, vì đó là ‘tấm vé vào cửa’ của thị trường các - bon”, bà nói.

Bà cũng ghi nhận, trong hai năm qua, nhận thức và hành động của doanh nghiệp đã thay đổi rõ rệt: nhiều doanh nghiệp FDI, một số doanh nghiệp nội địa tiên phong đã kiểm kê, lập kế hoạch giảm phát thải, mời bên thứ ba xác minh dữ liệu – bước chuẩn bị quan trọng cho giai đoạn vận hành chính thức vào năm 2025.

Theo bà Nguyễn Hồng Loan, thị trường các - bon Việt Nam không thể phát triển bền vững nếu thiếu đánh giá tác động bài bản. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà là điều kiện tiên quyết để chính sách vừa thực tế, vừa giữ được niềm tin của doanh nghiệp và quốc tế. Đánh giá tác động là kim chỉ nam để chúng ta bước vào thị trường các - bon với sự tự tin – tự tin rằng mỗi tấn CO₂ giảm được là thật, mỗi chính sách ban hành đều có cơ sở khoa học và lợi ích kinh tế rõ ràng.

Thu Hường
Bình luận

Có thể bạn quan tâm